QĐND Online - Men theo những con đường dốc dựng đứng với bốn bề là núi non bao phủ, chúng tôi có mặt ở Lũng Vân (Tân Lạc – Hòa Bình), mảnh đất vẫn được mệnh danh là nóc nhà xứ Mường…
Thung lũng mây ngàn
Con đường dẫn lên Lũng Vân phải băng qua những con dốc ngoằn nghèo với bốn bề là núi cao dựng. Càng lên cao, những đám mây mù càng dày đặc, có những đoạn mây chờn vờn trên đầu, quấn quýt dưới gầm xe máy…Đứng trên cao nhìn xuống, cả một dải đất dài của vùng Tây Bắc Hòa Bình như được thu gọn trong tầm mắt.
 |
|
Mường Bi lúc sương sớm
|
Vào sâu trong thung lũng, dù đang là mùa hè vẫn có cảm giác cái se se lạnh đang thấm dần vào da thịt. Trong những làn sương sớm mờ ảo, những nếp nhà sàn nằm chon von bên vách núi, nép mình sau những bãi ngô dài xanh mượt. Ngô ở đây được trồng nhiều hơn cả, ngô trải dài trên những quả đồi gối lên nhau không ngớt, ngô ngút ngàn trong những thung lũng mây trời. Đứng ở bất cứ đâu cũng vẫn ngửi thấy cái mùi ngai ngái, nồng nồng của ngô tỏa ra khắp thôn bản.
Không chỉ quyến rũ bởi vẻ đẹp thiên nhiên mộc mạc, trữ tình, Lũng Vân còn níu chân người bởi sự hiếu khách, thân thiện của những người dân bản địa.
Trong “Tứ đại đất Mường” - bốn cái nôi văn minh lớn và cổ xưa nhất của xứ Mường, người xưa căn cứ theo diện tích vùng, dân số, sự sung túc, gái đẹp, rượu cần ngon, quyền lực của nhà Lang, trâu bò nhiều và những chiếc chiêng có tiếng vang xa nhất mà phân theo thứ tự: nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động.
Đất Mường Bi được bắt nguồn từ một câu chuyện buồn…Thời xa xưa, có một vùng núi non dân bản đang sinh sống yên bình, thì bất ngờ một cơn đại hồng thủy dữ dội ập đến trong đêm. Mưa rền đất, sấm sét đánh ầm vang như muốn xé toạc nơi đây ra thành từng phần. Chỉ trong một đêm mưa lũ, tất cả nhà cửa, trâu bò, ruộng vườn, bị cuốn trôi sạch. Cả một vùng trù phú giờ chỉ còn xơ xác, lởm chởm đất đá như chưa từng in dấu tích của con người sinh sống. Chỉ có đôi vợ chồng nhà nọ bám được một chiếc bè luồng nên may mắn thoát nạn, chiếc bè chìm nổi giữa sóng dữ hết ngày này sang ngày khác, thế nhưng họ vẫn bám chặt lấy nhau không rời. May mắn sao chiếc bè vướng vào cây Bi - một cây cổ thụ khổng lồ, rễ cây ăn xuyên qua chín sông, mười núi nên vẫn vững vàng trong cơn hồng thuỷ.
Khi nước rút, không biết đường về nên đôi vợ chồng dựng nhà cửa ngay dưới gốc cây Bi để sinh con, đẻ cái, phát nương làm rẫy, thuần phục thú rừng, dựng nhà lập bản. Nhớ ơn cây cứu mạng, họ lấy tên cây đặt cho tên mường, hình thành nên vùng Mường Bi ngày nay, một vùng núi rừng rộng lớn bao gồm nhiều xã thuộc huyện Tân Lạc. Lũng Vân chính đỉnh cao nhất của xứ Mường Bi này.
“Bảo bối sống” của đất Mường Bi
Không chỉ được trời phú cho vẻ đẹp như ở xứ sở thần tiên, mà người Mường ở Lũng Vân này vẫn còn lưu giữ được những nét đẹp văn hóa từ ngàn đời.
Người Mường rất coi trọng vai trò của thầy mo. Bởi họ quan niệm, ông mo không chỉ là “Sứ giả giữa thế giới thần linh và nhân gian”, mà còn là “pho sử sống”, thuộc nhiều khúc sử thi hùng tráng của bản Mường.
Trong tất cả các lễ hội, nghi lễ từ: động thổ, làm nhà, ma chay, lễ làm mùa mới, chúc phúc đám cưới…người dân ở đây chỉ yên tâm khi được mo Kình cúng lễ và cầu xin thần linh ban phước. Riêng trong đám ma người Mường diễn ra liên tục trong ba ngày, đêm. Ông mo sẽ đọc những trường ca sông núi, những “đẻ đất, đẻ nước” của người Mường để cho “ma” dẫu có đi đâu vẫn nhớ đến cội nguồn, tổ tiên. Âm điệu của những bài hát cúng này thường thay đổi theo từng khúc, có lúc hùng tráng, có lúc bi ai có lúc da diết đầy cảm xúc.
Ông Kình cho biết: “Những bài mo ấy, ngoài ý nghĩa thiêng liêng, nó còn là tài sản văn hóa vô cùng quý giá chứa đựng cả lịch sử và hồn cốt dân tộc. Chỉ những người có “duyên” mới được các mo già đi trước truyền dạy những bài hát cúng và những câu chuyện truyền thuyết …”
Trong nhà mo Kình vật quý nhất được cho là “hộp đựng các sắc bùa thiêng” và một thanh kiếm gỗ làm lễ. Chúng được đặt ngay ngắn trên bàn thờ và chỉ được mở ra khi trong thôn bản có người mới mất, người Mường ở đây quan niệm nếu vi phạm sẽ làm làm các ma kéo đến nhà quấy nhiễu.
Ngoài việc cúng ma chay, thầy mo còn hát múa để xua đuổi ma quỷ, cầu may cho dân bản được hưởng nguồn nước trong lành, con người và con vật quanh năm khỏe mạnh, cây cối xanh tươi…
Giữa cái bao la của núi rừng những âm điệu của: “đẻ Đất, đẻ Nước” như âm vang, trầm hùng thành từng hồi không dứt:
"Một cành đổ về đất Sạp
Nên mường Sạp.
Một cành đổ về đất Giạp
Nên mường Giạp.
Một cành ngã về đất Bi, đất Lỗ.
Nên Mường Bi, Mường Lỗ..."
Bài, ảnh: Hà Trang