(Tiếp theo kỳ trước)
Anh đưa chúng tôi xem những tấm ảnh của gia đình trong đó có anh chụp chung với bà ở Cu-ba và Việt Nam. Những tấm ảnh đã hoen màu thời gian song thật quý báu, sẽ được anh đưa bà xem. Nhưng cũng không cần phải xem ảnh, khi người phiên dịch dịch lời của anh, nói tên Cu-ba của anh thì bà đã nhận ra. Bà giơ bàn tay ngang trước mặt, ra hiệu khi ấy anh còn nhỏ lắm, có đứng thì cũng chỉ cao chừng này thôi. Bà nhớ anh còn có người chị gái là A-ni-ta nữa.
 |
| Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tìm hiểu tình hình sản xuất lúa ở hai hợp tác xã nông nghiệp của huyện Gui-nét, tỉnh Ha-ba-na. |
- Con làm nghề gì?
- Dạ, con làm phi công.
- Thế thì đi nhiều nơi lắm.
- Vâng, bay khắp thế giới mà nay mới tới thăm được mẹ.
Khóe mắt tràn nước mắt, bà hỏi thăm sức khỏe của ba anh, nhắc lại kỷ niệm về người mẹ không còn nữa của anh.
Khi đoàn rời đi theo chương trình, anh ở lại thêm với bà. Anh nối máy điện thoại để bà nói chuyện với ba mình ở Hà Nội. Kỷ niệm về ngày rời Cu-ba 43 năm trước lại trỗi dậy, khi ấy cả bà và nhiều người bạn Cu-ba muốn hai chị em ở lại, vì về Việt Nam là về nơi đang có chiến tranh, còn Cu-ba đang là hậu phương. Họ chuẩn bị đủ cho hai chị em, người 9 tuổi, người 5 tuổi trang phục của quân nhân Cu-ba, với cỡ vừa vặn, rồi ba lô và đồ dùng cá nhân để hai chị em… trở lại chiến trường như cách nói của bà.
Con trai bà cùng vợ và hai con gái đang ở cùng, đã đưa anh tới căn nhà anh từng ở và nhà trẻ. Anh kể rằng khi đi bộ đến, anh nhận được ngay cả nơi ở cũ, đã được giao cho một cán bộ quân đội Cu-ba sử dụng và nhà trẻ thì hầu như vẫn nguyên vẹn như thuở nào.
Bà có mong muốn rằng trong một dịp gần đây, sẽ được đón hai chị em và gia đình sang thăm bà với thời gian dài dài, để chuyện trò, gặp gỡ, thăm hỏi nhiều người, nhiều nơi khác nữa.
Khách sạn Na-xi-ô-nan là một điểm đoàn ta ở, cũng là nơi diễn ra nhiều hoạt động quan trọng của chuyến thăm. Ở ngay trung tâm Thủ đô nhưng cảnh vật của khách sạn khá riêng, nằm trên đồi cao sát bờ biển, với hai khẩu thần công lớn nhỏ khác nhau từ nhiều thế kỷ trước, vẫn ngày đêm chĩa thẳng ra biển. Theo nhiều người nói thì trước cách mạng, khách sạn là nơi ở và lui tới của các "bố già" từ Mỹ sang. Phim "Bố già" nổi tiếng cũng từng được quay tại đây.
Giữa các hoạt động của đoàn, ngay sau Diễn đàn doanh nghiệp hai nước, tôi dạo khắp khu vườn bên bờ biển của khách sạn. Những cây xanh thuộc các loài khác nhau điểm nét cho những con đường, mái lều và bàn ghế để du khách ngồi nghỉ, giải khát ngoài trời. Nhưng nổi bật nhất là mấy cây bàng quả vuông-nói theo ngôn ngữ Việt Nam. Tôi ngắm nhìn không chán mắt rồi tìm các góc độ để chụp mấy kiểu ảnh. Cây nào cũng có tán lá rộng trùm khắp một khoảng đất, lá xanh ngắt, cả cây và lá đều to hơn cây bàng quả vuông rất nổi tiếng ở trung tâm huyện đảo Trường Sa của nước ta. Nổi tiếng vì cây bàng quả vuông được coi là tượng trưng cho tinh thần vượt qua phong ba, bão tố, vững vàng trước thiên tai, địch họa của những người lính biển Việt Nam, lại pha chút lãng mạn của tình cảm hướng về đất liền. Nay, lại gặp cây ở cách nửa vòng trái đất, như cùng sinh ra từ một nguồn cội. Những chùm quả bàng đang còn xanh, nhưng sẽ chín vàng trong thời gian ngắn nữa.
Từ con người đến cảnh vật tự nhiên, Việt Nam và Cu-ba khác nhau về không gian và thời gian, phong thổ địa lý, tiếng nói khác nhau nhưng lại thật giống như anh em sinh đôi vậy.
Con đường từ Thủ đô La Ha-ba-na đi huyện Gui-nét của tỉnh Ha-ba-na qua nhiều vùng quê. Nhiều đoạn đường đã bị xuống cấp, nhưng chỉ ở mức có những vết nứt nhỏ hoặc mặt đường bị bào mòn. Xe chạy khá nhanh mà vẫn êm, không bị xóc. Thỉnh thoảng, hai bên đường có những người hoặc nhóm người chờ đi nhờ xe. Khi thấy xe, có người đưa tay vẫy, lại có người kẹp cả mấy đồng tiền khi vẫy nữa, nhưng nhiều người chỉ lẳng lặng đứng nhìn. Đó là một nếp quen thường gặp ở bất cứ đoạn đường nào dù thành thị hay nông thôn Cu-ba. Xe ô tô, dù của tư nhân mà chưa chở đủ số người thường cho đi nhờ. Số người chờ đi nhờ thì nhiều mà xe qua lại không mấy. Ở những bến xe ô tô công cộng, người chờ cũng khá đông song xe cũng thưa vắng, thường là loại xe cũ, có xe đã nát. Rõ ràng đi lại chưa phải là sự ưu tiên số một ở Cu-ba.
Những làng mạc, vườn cây nhìn thoáng qua cửa kính ô tô, khắc vào cảm nghĩ của mọi người qua lại về cây mía và cây thuốc lá. Cùng với các sản phẩm của công nghiệp mía đường, rượu rum, loại rượu mạnh được chưng cất từ mía là một đặc sản, nổi tiếng là rượu Ba-các-đi. Những loại được chưng cất đã để được từ 7 năm trở lên thì dùng uống trực tiếp, những loại ít tuổi hơn thì pha chế các loại nước uống có cồn. Đây đó là những khu trồng thuốc lá rực trong nắng dùng để cuốn xì-gà. Người ta coi xì-gà ở tỉnh này và tỉnh láng giềng Pi-na Đen Ri-ô là ngon nhất thế giới. Vị của lá thuốc ngon bởi khí hậu và đất đai, không đâu có được. Phần lớn xì-gà của Cu-ba được sản xuất ở đây.
Rượu rum và xì-gà luôn được khắp thế giới biết đến, được Nhà nước và nhân dân đầu tư lớn. Song hơn một năm nay, cây lúa đang vươn lên chiếm vị trí ưu tiên. Đảng Cộng sản Cu-ba đã đưa Chương trình sản xuất lương thực lên nhiệm vụ số 1 của ngành nông nghiệp giai đoạn 2010-2015. Việc sản xuất lúa để giảm nhập khẩu gạo đang là thời sự nổi bật ở Cu-ba hiện nay.
Một ấn tượng khác nhận biết trên đường đi là rải rác đây đó những chiếc máy gặt đập liên hợp, máy kéo, máy cày cỡ lớn nhưng hầu hết cũ kỹ, có chiếc đã hư hỏng. Những khu nhà nông dân được đầu tư xây dựng tương đối giống nhau, nhỏ nhoi so với những cánh đồng rộng mênh mông. Đó là những gì còn lại của một thời gian dài hầu như chỉ vận hành một chương trình sản xuất lúa gạo theo quy mô lớn, cơ giới hóa (bạn gọi là sản xuất lúa chuyên canh). Đó là từ trước năm 1990, chủ yếu sản xuất lúa gạo theo hình thức quốc doanh, bằng 7 liên hiệp công-nông nghiệp trong cả nước với 31 đơn vị sản xuất, 14 nông trường; sản xuất theo dự án, cơ giới hóa từ làm đất đến thu hoạch, hệ thống giao thông và kênh mương, nhà máy phơi sấy bằng dầu hoặc bằng điện công suất lớn. Diện tích cao nhất đạt được vào năm 1980 là 150.000ha, năng suất cao nhất là những năm 1984-1986 đạt 3,75 tấn/ha, sản lượng cao nhất là 259.000 tấn vào năm 1990. Nhưng năm cao nhất cũng chỉ bảo đảm được 60% nhu cầu lương thực cho 9 triệu dân vào thời điểm đó. Sau năm 1990, từ khi Liên Xô (trước đây) sụp đổ, cùng hạn chế về tài chính trong nước, sự hư hỏng của máy móc, xuống cấp của hạ tầng cơ sở thì cả diện tích, năng suất và sản lượng giảm dần, có lúc tụt xuống còn 40.000ha và năng suất chỉ còn 2,7 tấn/ha. Rồi hạn hán, bão lốc cũng làm sản xuất lúa gặp thêm khó khăn. Sản xuất lúa trong các hợp tác xã và hộ nông dân (bạn gọi là sản xuất lúa không chuyên hoặc sản xuất lúa nhân dân) chưa phát triển tương xứng với tiềm năng. Cũng từ đó, hằng năm Cu-ba nhập của nước ta 400.000 tấn gạo, chưa kể nhập từ nguồn khác vài trăm nghìn tấn nữa.
Vì vậy, Chương trình sản xuất lúa gạo thời kỳ mới của Cu-ba đã xác định rõ: Gia tăng sản xuất lúa không chuyên và khôi phục sản xuất lúa chuyên canh theo phương thức mới. Trong đó phong trào sản xuất lúa nhân dân được khởi xướng với sự hợp tác và giúp đỡ của Việt Nam, với kết quả từ dự án hợp tác theo 3 giai đoạn trong 9 năm.
Có lẽ vì vậy mà Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã chọn điểm thăm không phải là nơi trồng, chế biến mía đường, rượu rum hay xì-gà hoặc lĩnh vực nào khác mà là vùng lúa huyện Gui-nét của tỉnh Ha-ba-na.
Đón Chủ tịch nước ngay tại ruộng lúa đang vào kỳ thu hoạch có cán bộ, công nhân Công ty phát triển phía Nam, xã viên hai hợp tác xã nông nghiệp ở liền kề nhau là Hợp tác xã tín dụng và dịch vụ (CCS) Bê-nan-xi-ô Un-ét (tên một liệt sĩ) và Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp (CPA) 27- 11 cùng bà con nông dân. Trời nắng to, có ai đó đưa Chủ tịch nước một cái mũ rộng vành màu sáng, kiểu mũ của những nông dân trồng mía. Câu chuyện râm ran trong tiếng máy gặt đập liên hợp. Những câu hỏi đáp liên tục, những người trả lời có cả lãnh đạo Bộ Nông nghiệp, tỉnh Ha-ba-na, công ty và hợp tác xã, ai biết đến đâu thì trả lời đến đó.
Qua câu chuyện mới rõ vùng lúa này đang hình thành cách làm ăn mới, mục tiêu là tiến tới tự túc lương thực. CCS được thành lập năm 1961, xuất thân từ một tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Hiện có 207 xã viên, có 61 thửa ruộng của các xã viên cũ hợp lại, cộng thêm 65ha đất hoang do Nhà nước mới cấp cho 14 xã viên được giao quyền sử dụng lâu dài. Ngoài việc canh tác lúa mỗi năm một vụ, bà con còn trồng thêm một số hoa màu khác như cà chua, hành, tỏi, trên chính mảnh đất trồng lúa sau khi đã thu hoạch xong. Hợp tác xã sản xuất mỗi năm một vụ, sản lượng khoảng 414 tấn thóc, năng suất bình quân 3,8 tấn thóc ướt/1ha.
Còn CPA được thành lập ngày 27-11-1979, với 59 xã viên, một dạng hợp tác xã do nông dân tự nguyện góp đất. Nó cũng sản xuất và kinh doanh những mặt hàng tương tự như CCS, nhưng có truyền thống trồng lúa nước. Cùng với một số nông trang khác, cả hai hợp tác xã này đều là thành viên của doanh nghiệp công-nông nghiệp quốc doanh-Công ty phát triển phía Nam trực thuộc tỉnh Ha-ba-na.
- Vai trò của Công ty này đối với hợp tác xã ra sao?
- Công ty ký hợp đồng với hai hợp tác xã cung ứng vật tư nông nghiệp và dịch vụ (như giống, phân bón, thuốc trừ sâu, nông cụ, thu hoạch bằng máy gặt đập, sấy thóc ướt, xay xát gạo…). Đồng thời thu mua với giá cao hơn trước toàn bộ thóc và các nông sản khác. Hợp tác xã cũng có một số máy gặt đập, sấy và xay xát, vận chuyển thóc riêng, nên có thể tự mình đảm nhận một phần dịch vụ của Công ty để hưởng trọn giá thu mua, đỡ mất tiền dịch vụ và vận chuyển.
- Như vậy là bà con nông dân được giao đất trồng lúa lâu dài?
- Ở những vùng đất có khả năng tưới tiêu chủ động thì thực hiện hai hình thức cho mượn đất. Một là, các liên hiệp lúa gạo cho công nhân, nông dân, người về hưu mượn đất gần nơi ở trong 1 năm và mượn lại vào năm tiếp theo. Hai là, cho mượn đất lâu dài được mở ra từ hai năm nay. Trong cả nước, Chính phủ chủ trương cho mượn 43.000ha đất trong thời gian từ 10 đến 20 năm, trung bình mỗi héc-ta cho khoảng 5-6 người mượn.
- Việc thu mua thóc của nông dân được tiến hành như thế nào?
- Gần đây, Chính phủ thu mua với giá cao lượng thóc tươi còn lại sau khi người nông dân hoàn thành nghĩa vụ hoàn trả tiền vật tư đầu tư của liên hiệp.
- Như vậy là đã có hình thức khoán cho hộ nông dân?
- Đúng như vậy. Việc khoán đó được thực hiện theo tổ, nhóm hộ nông dân hoặc từng hộ nông dân. Dù là mới nhưng đã cho thấy chi phí sản xuất giảm hẳn, năng suất cao hơn nên được mở ra trên diện rộng.
Bài và ảnh: VIỆT ÂN
(còn nữa)