Bài 3: Người chỉ huy mưu lược, quyết đoán

Đắk-pơ với những kỷ lục

Cuộc đối đầu lịch sử đã kết thúc. Binh đoàn cơ động 100 cùng với lực lượng chiếm đóng trong khu vực hoàn toàn bị tiêu diệt. Nhưng phải đến ngày 1-9-1954, Đại tá Masse mới đọc nhật lệnh giải thể Binh đoàn cơ động 100. Cựu chiến binh NguyễnTự cho biết thêm: Lịch sử cũng có sự trùng lặp, ngày 24-6-1946, Pháp đánh chiếm Đắk-pơ và 8 năm sau cũng đúng vào ngày tháng này (24-6-1954), chúng phải đền mạng tại Đắk-pơ.

Chiến thắng Đắk-pơ là một chiến công lớn nhất trên chiến trường Liên khu 5, đứng hàng thứ hai sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Riêng về đánh giao thông, trong cả 30 năm đánh Pháp và đánh Mỹ, chưa có trận vận động phục kích nào lớn hơn trận Đắk-pơ. Chiến thắng Đắk-pơ đã lập nhiều kỷ lục trong một trận giao thông chiến. Trước hết là kỷ lục về tiêu diệt sinh lực: Trong trận Đắk-pơ địch chết 500 tên; bị thương 600, bị quân ta bắt 800 tên (trong đó có quan năm Bờ-râu chỉ huy Binh đoàn). Kỷ lục về chiến lợi phẩm, trong chiến thắng này ta thu 375 xe cơ giới, có 1 xe tăng và 229 xe còn nguyên, 18 khẩu đại bác 105mm cùng toàn bộ vũ khí, khí tài, quân trang, quân dụng. Về hiệu quả chiến đấu, chưa có trận nào lực lượng của ta ít hơn địch tới 5-6 lần mà chỉ trong vòng 7 tiếng đồng hồ đã xóa sổ cả một binh đoàn cơ động, số địch bị loại khỏi vòng chiến đấu gần bằng ¼ ở Điện Biên Phủ (gần 4.000 so với xấp xỉ 16.000 tên). Số liệu trên đây được Trung tướng Khiếu Anh Lân  nguyên quyền Tham mưu trưởng Trung đoàn 96 xác nhận (in trong cuốn Trung đoàn 96-NXB QĐND - trang 39) và đã được khắc vào bia đá đặt tại Đắk-pơ.

Tâm sự với tôi, bác Nguyễn Tự và bác Trương Quang Quyền cho biết thêm, toàn bộ xe pháo chiến lợi phẩm ở Đắk-pơ đều được đưa lên tàu tập kết ra Bắc và nhiều năm được tham gia duyệt diễu binh trong ngày Quốc khánh 2-9. Ông Phạm Hồng, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai còn cho biết thêm: Chính khẩu Garant thu được trong trận Đắk-pơ đã nổ phát súng đầu tiên vào ngày 24-10-1958 mở đầu thời kỳ đấu tranh vũ trang chống Mỹ của quân và dân Gia Lai.

Đồng chí Nguyễn Minh Châu - Trung đoàn trưởng Trung đoàn 96 quán triệt nhiệm vụ cho đơn vị trước khi thực hiện nhiệm vụ. Ảnh tư liệu.

Chiến thắng Đắk-pơ được đánh giá cao không phải chỉ vì diệt được nhiều địch, thu được nhiều xe pháo… mà là vì ý nghĩa lịch sử và những tác động mang tính chiến lược của nó. Qua các tài liệu còn lưu giữ, sau thất bại của Binh đoàn cơ động 100, các binh đoàn còn lại (10, 41, 42, 21…) như bầy thú bị mất con đầu đàn, rất hoang mang, tinh thần rệu rã, nhiều đơn vị của Binh đoàn cơ động 42, mới nghe ta nổ súng đã bỏ chạy). Chiến thắng Đắk-pơ đã làm rung chuyển cả Tây Nguyên. Như đánh cờ bị mất hết xe, cả pháo, tình hình địch ở Tây Nguyên hết sức nguy khốn. Trong cuốn sách “Đông Dương hấp hối”, Tướng Na-va viết: “Tình thế nguy ngập tạo nên ở Cao Nguyên trước khi đình chiến là hậu quả trực tiếp của việc rút bỏ An Khê. Tình thế đó không thể xảy ra nếu không có cuộc rút chạy đó".

Trước sức tấn công mạnh mẽ của quân và dân ta, đầu tháng 7-1954, quân địch đã phải rút quân, tháo chạy khỏi nhiều nơi ở Bắc Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ. Sau chiến thắng Đắk-pơ, quân ta tiếp tục bao vây, chuẩn bị giải phóng Cheo Reo (Phú Bổn). Ngày 17-7, quân Pháp bỏ Plei-cu tháo chạy và bị quân ta tiêu diệt ở Chư Drek. Cùng lúc quân ta cũng áp sát và chuẩn bị đánh vào Buôn Ma Thuột… Có thể nói vào thời điểm sau chiến thắng Đắk-pơ, quân và dân ta đã đủ thế và lực để giải phóng Tây Nguyên. Các nhà quân sự chiến lược đều có chung nhận định: “Đông Dương như con voi, Tây Nguyên như lưng voi, ai ngồi lên lưng voi, thì người đó thắng”. Nỗi lo sợ nhất của Pháp lúc đó là, địa bàn chiến lược quan trọng này sắp thuộc về quân và dân Việt Nam. Tình hình địch ở Tây Nguyên trong thế ngàn cân treo sợi tóc. Nguy cơ tháo chạy là không thể tránh khỏi. Mất Tây Nguyên là mất tất cả. Và chỉ 3 ngày sau khi quân địch rút bỏ Plei-cu, ngày 20-7-1954, thực dân Pháp phải nhanh chóng hạ bút ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Được tin Trung đoàn 96 thắng trận Đắk-pơ, Bác Hồ đã gửi thư khen, trong thư Bác viết: “... Các chú hoạt động có thành tích khá, Bác vui lòng thay mặt Chính phủ khen ngợi các chú, và thưởng đoàn vừa thắng khá ở An Khê, Huân chương Kháng chiến hạng nhất…”. Ai cũng hân hoan với chữ “Bác vui lòng”. Bác vui bởi chiến thắng Đắk-pơ đã góp phần rút ngắn được cuộc chiến, hòa bình sớm được ngày nào thì bộ đội và đồng bào ta đỡ đổ mồ hôi, xương máu ngày ấy.

Còn Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì đánh giá: “…Đây là một trận vận động phục kích lớn, dũng cảm và linh hoạt, tận dụng được yếu tố bất ngờ, sử dụng lực lượng với hiệu quả cao, đánh trúng vào chỗ yếu của địch, bồi thêm cho chúng một đòn thất bại nặng nề…”.

Người chỉ huy trong ký ức

Bồi hồi nhớ về trận chiến năm xưa, các cựu chiến binh Nguyễn Tự, Trương Quang Quyền... của Trung đoàn 96 không ngớt lời khen ngợi, thán phục Trung đoàn trưởng Nguyễn Minh Châu - người chỉ huy mưu lược, quyết đoán trong tay chỉ có 700 chiến binh đầu trần, chân đất, mà dám tung ra đánh tan cả một binh đoàn cơ động cùng với lực lượng chiếm đóng An Khê, quân số lên đến gần 4000 tên. Đắk-pơ là chiến công chung của cả Trung đoàn 96 và các lực lượng tham gia chiến đấu nhưng với cương vị chỉ huy, đồng chí Nguyễn Minh Châu, Trung đoàn trưởng là người có công lớn nhất. Hiếm có một người chỉ huy nào mưu lược, quyết đoán, táo bạo như đồng chí Nguyễn Minh Châu.

Với thái độ trân trọng, cựu chiến binh Nguyễn Tự nói: “Hiếm có vị chỉ huy nào có gan to như vậy, thật là phi thường ”. Dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Minh Châu, mới thành lập được 55 ngày, tổ chức chưa ổn định, Trung đoàn phó, Tham mưu trưởng chưa về kịp, Tiểu đoàn 30 đang phải kìm chân địch ở Quy Nhơn, chỉ còn lại Tiểu đoàn 40 và Tiểu đoàn 79, trang bị vũ khí còn đơn giản, nhưng với “gan vàng dạ sắt”, với những trái tim rực lửa căm thù và truyền thống anh hùng bất khuất của cha ông, Trung đoàn 96 bỗng vụt lớn nhanh như Phù Đổng, trở thành một quả đấm thép đập tan cả một binh đoàn cơ động thuộc loại mạnh nhất lúc bấy giờ”.

Kể về tài mưu lược và sự tính toán kỹ lưỡng của đồng chí Trung đoàn trưởng, cựu chiến binh Nguyễn Tự bồi hồi nhớ lại: “Để bàn tính cách đánh, Trung đoàn trưởng Nguyễn Minh Châu đã chỉ thị cho Tiểu đoàn 40 cử cán bộ chạy thật nhanh từ vị trí đứng chân của Trung đội ĐKZ ra đến chỗ đặt súng bắn chặn đầu, dùng đồng hồ xác định thời gian vận động hết bao nhiêu phút, rồi báo lên Sở chỉ huy để tính thời điểm hạ lệnh xuất kích, sao cho chiếc xe đi đầu vừa lên tới đỉnh dốc, cũng vừa hứng ngay loạt đạn ĐKZ đầu tiên của ta. Vị trí đó đường hẹp, hai bên vách đá dựng đứng, nếu một chiếc xe bị chết tại đây, thì không xe nào vượt qua nổi”. Cựu chiến binh Nguyễn Tự cũng cho biết, chiếc đồng hồ dùng để bấm giờ đánh trận Đắk-pơ được ông lưu giữ như một báu vật suốt từ ngày đó cho đến gần đây ông mới trao nó cho Bảo tàng tỉnh Gia Lai và hiện nó đang được trưng bày phục vụ khách tham quan tại bảo tàng này.

Trong trận phục kích Đắk-pơ của Trung đoàn 96, Trung đoàn trưởng Nguyễn Minh Châu bố trí Tiểu đoàn 79 có hai đại đội bộ binh trên đoạn phục kích chủ yếu dài khoảng 800m từ cầu Đắk-pơ về phía đông, ngược lại dùng cả Tiểu đoàn 40 với 3 đại đội bộ binh phục kích trên đoạn đường 400m về phía tây. Theo Trung tướng, PGS Khiếu Anh Lân, nguyên quyền Tham mưu trưởng Trung đoàn 96 trong trận Đắk-pơ: “Đây là sự vận dụng sáng tạo”. Lý giải rõ hơn về sự sáng tạo này Trung tướng Khiếu Anh Lân đã viết: “Đoạn 800m - trận địa phục kích chủ yếu, có địa hình lý tưởng cho việc tiến công địch từ phía bắc (trên cao) xuống. Khi địch bị chặn ở phía tây cầu Đắk-pơ thì đoạn này chính là chỗ địch bắn trả bộ đội ta ở độ tà dương, khó trúng đích mà ngược lại ta phát huy được đầy đủ các loại vũ khí, cả xung lực… Hai đoạn phục kích của hai tiểu đoàn có độ dài ngắn khác nhau, nhiệm vụ có khác nhau còn phải xét đến trình độ và khả năng chiến đấu của từng đơn vị phụ trách. Tiểu đoàn 79 tuy chỉ có hai đại đội bộ binh nhưng là hai đại đội chủ công của trung đoàn, có dàn cán bộ tiểu đội, trung đội, đại đội dạn dày kinh nghiệm, đánh công kiên cũng giỏi, đánh vận động cũng rất nhiều kinh nghiệm. Trung đoàn trưởng giao cho Tiểu đoàn 79 đánh đoạn này là rất phù hợp…”.

Đề cập đến vai trò và tài mưu lược của Trung đoàn trưởng Nguyễn Minh Châu trong chiến thắng Đắk-pơ, Đại tá cựu chiến binh Lê Ngọc Khuê, nguyên chính trị viên Đại đội 223, Tiểu đoàn 79, Trung đoàn 96 nhớ lại: “... Ngày 17-6-1954, chúng tôi được lệnh của đồng chí Trung đoàn trưởng Nguyễn Minh Châu về trung đoàn họp để nghe phổ biến nhiệm vụ mới và kế hoạch tác chiến. Rất phấn khởi trước nhiệm vụ quan trọng mà cấp trên giao cho, nhưng chúng tôi vẫn còn có những băn khoăn lo lắng về lực lượng của ta tương đối mỏng… Đồng chí Nguyễn Minh Châu đã phân tích rất cặn kẽ, đồng chí nhấn mạnh đến thời cơ mới, khi địch đang ở thế bị động đối phó. Chiến dịch Át-lăng đang bị sa lầy ở Quy Nhơn, Tuy Hòa, nhiều binh đoàn cơ động của địch buộc phải phân tán đối phó khắp nơi. Trung đoàn 96 tuy mới tổ chức nhưng gồm những đơn vị đã kinh qua chiến đấu và chiến thắng, được trang bị khá đầy đủ so với khi mới bước vào chiến dịch. Cán bộ và chiến sĩ ta sau chiến thắng Kon Tum đã dày dạn kinh nghiệm chiến đấu... Tư tưởng được giải quyết, chúng tôi rất phấn khởi và quyết tâm đánh địch...”.

DANH SÁCH 93 TRONG TỔNG SỐ 147 CÁN BỘ, CHIẾN SĨ HY SINH TRONG TRẬN ĐÁNH ĐẮK-PƠ
35) Đồng chí Choang - Gia Lai; 36) Đồng chí Tpích - Gia Lai; 37) Đồng chí Chương - Vĩnh Thạch, Bình Định; 38) Đồng chí Ửng – xã Hoài Thanh, Hoài Nhơn, Bình Định; 39) Đồng chí Đức - Điện Bàn, Quảng Nam; 40) Đồng chí Tiến - Quảng Nam; 41) Đồng chí Sử - Quảng Nam; 42) Lê Văn Cầu - Nhơn Bình, Quy Nhơn, Bình Định; 43) Nguyễn Đình Phú - Quy Nhơn, Bình Định; 44) Văn Ngọc Sơn – xã Vĩnh Hội, Tây Sơn, Bình Định; 45) Trần Ngọc Đạm - Vĩnh Hội, Tây Sơn, Bình Định; 46) Lê Phát - Vĩnh Hội, Tây Sơn, Bình Định; 47) Trần Đình Hoành - Duy Xuyên, Quảng Nam; 48) Nguyễn Bình - Đại Lộc, Quảng Nam; 49) Nguyễn Văn Ký - chưa xác định được rõ quê; 50) Ngô Dây - Phù Cát, Bình Định; 51) Hồ Tạo - Tây Sơn, Bình Định; 52) Trần Đề - chưa xác định được; 53) Lê Màng - Chưa xác định được; 54) Đồng chí Giảng - Điện Bàn, Quảng Nam; 55) Đồng chí Hiền - chưa xác định được quê;  


Kim Lân

Huyền thoại Đắk-pơ (bài 2)

Huyền thoại Đắk-pơ (bài 1)