Bài 2: Trận chiến không cân sức

“Đánh theo quyết tâm của người chỉ huy”

Sau khi nhận nhiệm vụ, đêm 17-6-1954, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 96 dẫn đoàn cán bộ đi khảo sát thực địa. Quyết chiến điểm được xác định tại Đắk-pơ trên quốc lộ 19 phía tây An Khê 15km, vì đây là đoạn có cầu Đắk-pơ, đường quanh co, khúc khuỷu, phía bắc là những núi đất, đá đan xen với những vách đứng ta luy cao 3-5m; phía nam là những hố sâu kéo dài đến tận thung lũng Song Ba… Tiểu đoàn 79 có nhiệm vụ phục kích trên hướng chủ yếu diệt địch từ cầu Đắk-pơ lùi về phía đông khoảng 800m. Tiểu đoàn 40 có nhiệm vụ chặn đầu, tiêu diệt địch từ cầu Đắk-pơ đến đỉnh dốc Đắk-pơ khoảng 400m.

Tính toán chính xác thời gian trừ hao để hạ lệnh xuất kích là một chi tiết rất quan trọng trong đánh vận động phục kích. Cựu chiến binh Nguyễn Tự giải thích: Nếu xuất kích sớm hơn, trên mặt đường chưa có địch, xung kích của ta sẽ dính phi pháo dọn đường, thương vong nhiều trước khi nổ súng; Ngược lại nếu xuất kích chậm hơn, một bộ phận quân địch sẽ vượt qua vị trí chặn đầu, ta nổ súng chúng sẽ quay lại đánh tạt sườn đơn vị chặn đầu khó hoàn thành nhiệm vụ. Vì thế, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 96 hết sức quan tâm đến việc này. Đồng chí chỉ thị các cơ quan tham mưu trung đoàn, tiểu đoàn đi vẽ thực địa sơ đồ trận đánh, sau đó đắp sa bàn phổ biến kế hoạch tác chiến đến tận chiến sĩ.

Quân Pháp đầu hàng trong trận Đắk-pơ. Ảnh tư liệu.

Ngày 24-6, Trung đoàn 96 được lệnh chiếm lĩnh trận địa trước khi trời sáng. Vào 8 giờ, tin từ đài quan sát báo về có nhiều xe quân sự từ An Khê lên, có cả xe tăng, xe thiết giáp... trinh sát đếm được gần 400 chiếc. Trên không, máy bay địch quần lượn trinh sát dọc theo quốc lộ 19, chỉ huy Trung đoàn 96 nhận định: “Hơn hai tháng bị bao vây cô lập, máy bay không đủ sức tiếp tế cho nên toàn bộ lực lượng của chúng ở An Khê buộc phải rút về Plei-cu”. Quyết tâm chung là chặn đánh cả đoàn xe. Nhưng đánh như thế nào thì cần phải bàn kỹ. Là cán bộ tác chiến của Tiểu đoàn 40 nên đồng chí Nguyễn Tự được tham gia bàn cách đánh. Ông nhớ lại: Tại hội nghị có nhiều ý kiến tranh luận gay gắt. Một số ý kiến cho rằng, do lực lượng của ta quá mỏng, vũ khí trang bị kém xa địch… chỉ nên cắt đánh tiêu diệt một bộ phận. Nhưng Trung đoàn trưởng Nguyễn Minh Châu thì trước sau vẫn bảo lưu ý kiến đánh cả đoàn. Đồng chí phân tích: Địch đông hơn nhưng ở thế rút chạy, tinh thần đang hoang mang dao động đến cực độ. Ta đánh cả đoàn xe nhưng phải bao vây, chia cắt rồi tiêu diệt lần lượt từng bộ phận. Mặt khác đoạn đường mà ta chặn đánh có cầu Đắk-pơ với nhiều khúc cua tay áo, địa hình hiểm trở… lực lượng ta tuy không đông nhưng ở thế mạnh hơn địch… Trước tình hình đó, Chính ủy Trung đoàn thay mặt Đảng ủy giao cho Trung đoàn trưởng toàn quyền quyết định. Đây là tình huống cực kỳ khó khăn. Nếu đánh cả binh đoàn thì khó kham, vì đúng là lực lượng ta quá mỏng so với địch, VKTB cũng kém chúng một trời một vực! Hơn nữa, nếu đánh cả đoàn xe là trái với nguyên tắc chiến thuật: “Phải tập trung ưu thế binh hỏa lực gấp 3 lần kẻ địch, mới đánh thắng được chúng”. Nhưng nếu cắt đánh đoạn cuối cho vừa sức thì có tội với Đảng, với nhân dân, với bộ đội. Vì để sổng phần lớn Binh đoàn cơ động 100 chạy thoát về Plei-cu và cuộc kháng chiến còn kéo dài, ác liệt, kẻ địch còn gây nhiều tội ác, quân và dân ta còn phải hao tốn thêm nhiều xương máu. Với tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, trước sinh mệnh của cả trung đoàn, Trung đoàn trưởng phải hết sức tỉnh táo, suy tính hết mọi yếu tố để có một quyết đoán khoa học, không phiêu lưu mạo hiểm, bảo đảm chắc thắng.

Thời gian còn rất ngắn, Trung đoàn trưởng hạ quyết tâm táo bạo: Đánh hết không cho xe nào chạy thoát, liên tục tập kích, truy kích, ngày 24 không xong, đánh tiếp sang ngày 25, nắm chắc đội dự bị chuẩn bị đánh cả Binh đoàn chủ lực 42 với 400 xe xuống đón Binh đoàn cơ động 100 - Quyết tâm này đã được truyền đạt đến tận chiến sĩ. Qua điện đàm, Trung đoàn trưởng Nguyễn Minh Châu xin ý kiến cấp trên. Đồng chí Nguyễn Chánh, Tư lệnh Mặt trận chỉ thị: “Đánh theo quyết tâm của người chỉ huy...”.
“Con trăn khổng lồ” và… “lưỡi búa Thạch Sanh”

Đến 12 giờ 30 phút, quân địch lọt vào trận địa phục kích. Trung đoàn trưởng hạ lệnh toàn Trung đoàn xuất kích. Trung đội ĐKZ trong đội hình Tiểu đoàn 40 mở hết tốc lực đến trận địa đúng giờ quy định. Ngay trong loạt đạn đầu tiên, ĐKZ đã bắn gục chiếc xe công binh đi trước đội hình địch khi nó vừa ngoi lên tới đỉnh dốc. Chiếc đi đầu khựng lại làm mấy trăm chiếc xe phía sau bị ùn ứ, dồn sát vào nhau như một con trăn khổng lồ dài hơn 5km, phơi mình chờ sự trừng phạt của “lưỡi búa Thạch Sanh”.

Cùng lúc với ĐKZ, cối 82mm… các mũi xung kích của ta cũng ào ạt xông lên. Trên hướng Tiểu đoàn 40, quân địch dựa vào thành xe, nép vào vách núi để tránh những làn đạn cấp tập của ta. Hỏa lực của ta bắn rất chính xác, nhiều tên địch bị tiêu diệt, một số xe tăng, xe bọc thép... đã bốc cháy. Lực lượng ta xung phong xuống mặt đường. Quân địch chống cự yếu ớt, số sống sót bỏ chạy thục mạng xuống phía nam đường 19 nhưng cũng bị chặn đánh. Một số tên vượt qua đoạn chặn đầu tháo chạy về phía cứ điểm Mũi Nhung nhưng cũng bị lực lượng ta phục bắt sống.

Tiểu đoàn 79 sau khi diệt gọn lực lượng địch bảo vệ sườn, đã đụng ngay tiểu đoàn đi đầu của Binh đoàn 100, trong đó có cả sở chỉ huy binh đoàn. Quân địch dựa vào xe tăng, xe bọc thép chống cự quyết liệt. Lệnh xung phong phát ra, quân ta ào xuống mặt đường. Mặc dù một số đồng chí bị thương vong nhưng Đại đội 224 vẫn bám địch theo từng khu vực, chia cắt chúng ra để tiêu diệt. Cối 82mm, ĐKZ cũng kịp thời nổ súng chính xác vào đội hình địch, yểm trợ đắc lực cho bộ binh ta xung phong. Xe chỉ huy của Binh đoàn cơ động 100 bị trúng đạn, tên quan năm Ba-ru bị thương chạy trốn (hôm sau bị ta bắt); Trung tá La-giu-an (Lajouanie) bị thương nặng. Đại đội chỉ huy của Binh đoàn cơ động 100 lần lượt ngã gục, Thiếu tá Hip-pôn (Hippolite) - Tham mưu trưởng Binh đoàn, Thiếu tá A-ri-ê (Arieux) - Cụm trưởng pháo binh, đều bị tử trận, xe điện đài bị phá hủy hoàn toàn. Sau 15 phút, tất cả các nhân vật chỉ huy Binh đoàn cơ động 100 đều bị loại khỏi vòng chiến đấu và binh đoàn bị cắt đứt hoàn toàn liên lạc với bên ngoài. Như rắn mất đầu lại bị đánh phủ đầu, đội hình của địch rối loạn, lớp chết lớp bị thương, số còn sống bỏ chạy thục mạng xuống phía nam, ngoan cố dựa vào thành xe, vách đá liều chết chống cự, các ổ đề kháng của địch lần lượt bị hỏa lực ta dập tắt.

15 giờ 30 phút, quân ta làm chủ địa đoạn phục kích. Nhận định, lực lượng phía sau của địch còn rất mạnh, nhất định chúng sẽ tổ chức phản kích, Trung đoàn trưởng lệnh cho các đơn vị khẩn trương củng cố công sự trận địa, chuẩn bị đánh địch phản kích. Quả không sai, sau cơn hoảng loạn, Thiếu tá Ka-bin-man (Kbinmann) lên nắm quyền chỉ huy binh đoàn, củng cố lại lực lượng, tổ chức nhiều đợt phản kích ác liệt. Chúng cho phi pháo cấp tập dọn đường, dùng nhiều xe tăng dẫn bộ binh đánh thẳng vào trận địa ta. Áp dụng lối đánh cận chiến chờ địch đến thật gần quân ta mới phát dương mọi thứ hỏa lực có trong tay, nhất là ĐKZ đã phát huy tối đa uy lực bắn cháy nhiều xe tăng, tất cả các đợt phản kích của địch đều bị đẩy lùi. Lối đánh cận chiến của ta còn vô hiệu hóa được sự chi viện của không quân, pháo binh địch. 17 giờ 30 phút với nỗ lực cuối cùng, địch tăng cường phi pháo, huy động tối đa xe tăng, bộ binh quyết chiếm lĩnh trận địa của ta. Đại đội 223 của Tiểu đoàn 79 chỉ còn 25 tay súng vẫn kiên cường đánh trả quyết liệt, nhưng vì địch quá đông, hỏa lực dày đặc, tình thế hết sức nguy cấp, Trung đoàn trưởng đã kịp thời lệnh cho cối 82mm, lực lượng phóng bom, ĐKZ tập trung hỏa lực cao độ bắn vào đội hình của địch, đồng thời tung ngay đội dự bị tăng cường cho Tiểu đoàn 79. Chấp hành mệnh lệnh của trung đoàn trưởng, hỏa lực vòng đầu và ĐKZ của ta bắn rất chính xác, nhiều xe tăng bốc cháy, tạo thành hàng rào lửa đạn, chặn đứng bước tiến của kẻ thù. Cùng lúc, lực lượng dự bị kịp thời đến chi viện, hai đơn vị phối hợp chiến đấu có sự yểm trợ tối đa của hỏa lực trung đoàn, gây cho địch nhiều thương vong buộc phải tháo chạy. Đợt phản kích ác liệt cuối cùng của địch đã bị ta đập tan.

Vào 19 giờ, quân ta hoàn toàn làm chủ trận địa. Toàn bộ tàn quân của địch vứt bỏ tất cả xe pháo, phương tiện vũ khí khí tài, quân trang, quân dụng... bươn rừng chạy trốn về hướng Nam, giữa đêm tối, trong một cơn ác mộng thực sự. Trung đoàn trưởng Nguyễn Minh Châu điều một trung đội bộ binh tăng cường 4 khẩu đại liên truy kích địch ngay trong đêm. Đích thân đồng chí đi cùng và trực tiếp chỉ huy. Trung đội truy kích chỉ với 30 tay súng đã xóa sạch 3 ổ đề kháng của địch, bắt sống hơn 300 tù binh...

Trước khi tháo chạy, Thiếu tá Ka-bin-man mới lên nắm quyền chỉ huy Binh đoàn 100 đã quyết định để toàn bộ thương binh tại trận địa, giao nhiệm vụ cho Thiếu tá bác sĩ Gia-vin (Janville) chăm sóc. Từ 8 giờ sáng 25-6-1954, máy bay địch lượn vòng vừa thả dù thuốc men, vừa dùng loa xin quân ta cho phép được dùng máy bay tiếp tế thực phẩm, thuốc men cho thương binh của họ. Thực hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam, quân ta chấp nhận đề nghị của họ, mỗi ngày cho 2 chuyến trực thăng từ Plei-cu hạ cánh ngay trên mặt đường 19, nhưng thời gian và địa điểm do ta quy định. Không chỉ thế, ta còn cử cán bộ y tế đến chăm sóc điều trị thương binh của họ.

Đại tá, Bác sĩ Nguyễn Công Nghiêm, nguyên Quân y trưởng Trung đoàn 96 trong trận Đắk-pơ nhớ lại: Sau khi tiếng súng chấm dứt, chỉ huy Trung đoàn chỉ thị cho đồng chí Nguyễn Như Trinh, Trưởng ban Địch vận trung đoàn đến trạm phẫu cùng tôi đi thăm thương binh địch bị bắt, trong đó có cả tên quan năm Ba-ru. Đồng chí Trinh giới thiệu tôi là Quân y trưởng của Trung đoàn 96 – đơn vị vừa đánh tiêu diệt binh đoàn của ông ta, đến thăm và khám vết thương cho ông. Ba-ru vẫn ngồi im lặng, bên cạnh hắn vẫn còn hai tên hầu cận như trước đây. Đồng chí Trinh nói tiếp: “Theo chính sách nhân đạo và bác ái của Hồ Chủ tịch và Chính phủ Việt Nam, Ban chỉ huy Trung đoàn 96 chúng tôi cử thầy thuốc đến thăm, khám vết thương cho ông.” Lúc này Ba-ru mới ngẩng đầu lên, nét mặt tươi hẳn, nhưng vẫn tỏ thái độ lãnh đạm. Lúc bấy giờ tôi còn là thanh niên tuổi hai mươi, mặc bộ bà ba đen, đầu đội mũ bê-rê, vai mang xắc thuốc và dụng cụ y tế, súng lục vẫn ngang hông. Nhìn thái độ của Ba-ru, thấy cần phải thuyết phục y nên tôi bảo hai tên hầu cận ra ngoài rồi trực tiếp nói chuyện với Ba-ru. Trước khi đi làm nhiệm vụ, đồng chí Trinh nhắc tôi: “Hãy làm công tác địch vận bằng chính công tác của mình – công tác y tế”.

- Chắc ông đã hiểu chức năng của tôi? – Tôi nói với Ba-ru bằng tiếng Pháp – Tôi đến đây hoàn toàn với tấm lòng nhân đạo của người thầy thuốc Việt Nam, để khám sức khỏe và chăm sóc vết thương của ông và đồng đội ông hiện đang dưới quyền kiểm soát của chúng tôi-Tôi tin chắc rằng với chính sách khoan hồng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam, sớm hay muộn các ông cũng sẽ được trao trả về với gia đình, vợ con đang mong đợi ông. Bây giờ đối với chúng tôi, ông không phải là một quan năm đã chiến bại mà là một người lính đang bị thương… xem ông như một thương binh của chúng tôi.

Ba-ru tỏ vẻ bối rối trước những lời nói có lý, có tình đó và đã xin lỗi tôi. Ba-ru nói: “Lúc đầu, tôi không hiểu hết mọi việc và có phần mặc cảm, bây giờ tôi đề nghị bác sĩ kiểm tra lại vết thương cho tôi”. Khi ấy tôi gọi hai tên hầu cận vào và mời một viên quân y của Pháp đi theo. Tôi khám bệnh và xem lại vết thương, cho thay băng, hướng dẫn cách điều trị và thuốc men cần dùng. Bắt đầu từ Ba-ru rồi chúng tôi lần lượt khám vết thương cho các tên khác…. Ít lâu sau, những tù binh, thương binh này đều được ta trao trả cho phía Pháp.

Kim Lân

Huyền thoại Đắk-pơ (bài 1)

DANH SÁCH 93 TRONG TỔNG SỐ 147 CÁN BỘ, CHIẾN SĨ HY SINH TRONG TRẬN ĐẮK-PƠ

21) Nguyễn Hữu Tài-Hoài Nhơn, Bình Định; 22)  Bùi Văn Hải-Quảng Ngãi; 23) Ngô Văn Luận-Bình Định; 24) Trần Sĩ Mai-Phú Yên; 25) Phan Lung-Tam Quan, Bình Định; 26) Trần Văn Liên-Cán bộ Đại đội ĐKZ; 27) Nguyễn Hương-Cán bộ Đại đội ĐKZ; 28) Nguyễn Văn Thiện–Bình Định; 29) Đồng chí Tâm-Quảng Ngãi; 30) Đồng chí Ngưỡng–Nghệ An; 31) Đồng chí Thành-An Khê, Gia Lai; 32) Đồng chí Lực-Phú Tài, Bình Định; 33) Đồng chí Đức-Đức Phổ, Quảng Ngãi; 34) Hrinh-Gia Lai;