LTS: Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, trên địa bàn Bắc Tây Nguyên diễn ra một trận đánh được thực hiện bởi Trung đoàn 96 Liên khu 5, đó là trận Đắk-pơ. Nếu không có chiến thắng Đắk-pơ, hội nghị Giơ-ne-vơ còn giậm chân tại chỗ, cuộc kháng chiến chống Pháp chưa thể dứt điểm, quân và dân ta còn phải hy sinh nhiều xương máu. Chiến thắng Đắk-pơ có quy mô, tầm vóc lịch sử, ý nghĩa chiến lược quan trọng nhưng bao năm qua ít được nói đến. Phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã lần tìm những nhân chứng với hy vọng làm sống lại chiến thắng oai hùng, lừng lẫy một thời.
Bài 1: “Điệu hổ ly sơn”
Từ cuốn sổ nhỏ và chiếc bình tông
Hà Nội giữa những ngày hè nắng nóng cao điểm, trong căn hộ khiêm nhường nhưng gọn gàng, ngăn nắp ở ngõ 186, Ngọc Hà, Ba Đình, tôi đã gặp được cựu chiến binh Trương Quang Quyền sau nhiều lần lỡ hẹn. Minh mẫn, khỏe mạnh, nhanh nhẹn vẫn điều khiển xe gắn máy, đạp xe hoặc lên tàu Bắc - Nam đi thăm bạn bè, đồng đội ít ai nghĩ rằng người cựu chiến binh này đã bước sang tuổi 82. Ông rời quê hương Đức Chánh, Mộ Đức, Quảng Ngãi tham gia hoạt động cách mạng từ tháng 3-1945 vào hoạt động bí mật tại Tỉnh ủy Quảng Ngãi. Toàn quốc kháng chiến, ông gia nhập quân đội thuộc Tiểu đoàn Cảm tử quân Liên khu 5 và liên tục gắn bó với vùng đất Tây Nguyên lịch sử cho đến ngày kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp...
 |
| Trang đầu của cuốn sổ mà cựu chiến binh Trương Quang Quyền đang lưu giữ. Ảnh: Kim Thanh. |
Ông khẽ khàng mở tủ kính lấy ra tập giấy tờ dày cộp rồi lần lượt bày ra trước mặt tôi các tài liệu và cả những kỷ vật trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Những cử chỉ, động tác của ông như mách bảo tôi rằng, con người này rất trân trọng quá khứ.
Trong số những tài liệu, kỷ vật mà ông Quyền còn lưu giữ tôi đặc biệt chú ý tới cuốn sổ nhỏ in bằng tiếng Pháp đã ố màu thời gian và chiếc bình tông nham nhở những vết trầy xước do va đập. Theo lời kể của ông, năm 1954 ông là chính trị viên phó thuộc Tiểu đoàn 40, Trung đoàn 96 – đơn vị chủ công làm nên chiến thắng Đắk-pơ. Cuốn sổ và chiếc bình tông này quân Pháp đã làm rơi khi tháo chạy trong trận chiến ấy, ông thu được và lưu giữ trong suốt 56 năm qua.
Khi nhắc đến chiến công ngày ấy nét mặt bỗng trở nên đăm chiêu, giọng bùi ngùi, ông Quyền nói:
- Anh em Cựu chiến binh Trung đoàn 96 rất buồn. Chẳng hiểu vì lý do gì mà Đắk-pơ, chiến thắng lớn nhất trên chiến trường Tây Nguyên trong thời kỳ chống Pháp lại bị rơi vào quên lãng. Anh em Ban liên lạc Cựu chiến binh Trung đoàn 96 nghĩ, để làm sống lại Đắk-pơ huyền thoại trước tiên phải nhờ đến Báo Quân đội nhân dân.
Nghe ông nói tôi bỗng thấy mình cũng có lỗi trong chuyện này. Tôi đề xuất với ông nên trao hai kỷ vật kháng chiến cho bảo tàng, biết đâu trong số các cựu chiến binh Pháp trở lại Việt Nam có chủ nhân của cuốn sổ và chiếc bình tông ấy. Ông Quyền cho biết: "Bảo tàng lịch sử Quân sự Việt Nam đã liên hệ với tôi muốn xin hai kỷ vật này nhưng tôi chưa đồng ý". Hỏi ra mới hay, người cựu chiến binh này vẫn hy vọng một ngày nào đó có một khuôn viên bảo tàng ngay tại Đắk-pơ và ông sẽ trao hai kỷ vật này cho chính bảo tàng đó.
Từng trang tài liệu cứ lần lượt được ông Trương Quang Quyền mở ra và quá khứ cứ theo nhau hiện về. Nhìn bàn tay run rẩy và lời kể bồi hồi của người cựu chiến binh già tôi hiểu rằng trong con người này cảm xúc, niềm tự hào đã góp phần làm nên chiến thắng Đắk-pơ huyền thoại đang dâng trào.
Hành quân lên Tây Nguyên
Ông Quyền nói: "Muốn hiểu về Đắk-pơ trước hết phải hiểu về tình hình lúc bấy giờ” và ông bắt đầu câu chuyện. Cục diện chiến trường Liên khu 5 khi ấy phát triển mau lẹ theo chiều hướng có lợi cho ta nhờ sự tác động của những thắng lợi liên tiếp trên khắp cả nước. Nhiều vùng ở Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa… trước đây bị địch chiếm đóng trở thành vùng du kích. Ở Tây Nguyên, các căn cứ của du kích và bộ đội chủ lực Liên khu 5 ngày càng được mở rộng. Để đưa cách mạng phát triển lên giai đoạn mới, Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng đã họp và quyết định đẩy mạnh các hoạt động quân sự, chính trị thành cao trào.
Trước nguy cơ ngày càng lún sâu vào bị động, nhằm gỡ thể diện, Pháp đã cử Na-va – viên đại tướng nổi tiếng sang Đông Dương làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh. Vừa đặt chân đến vùng đất “nóng” này Na-va đã cho ra đời kế hoạch mang chính tên ông ta – kế hoạch Na-va. Bước vào giai đoạn cuối của chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, thực hiện kế hoạch Na-va, trên địa bàn Liên khu 5, thực dân Pháp mở Chiến dịch Át-lăng, hòng tìm mọi cách, tập trung một lực lượng cơ động lớn đánh chiến toàn bộ vùng tự do. Chúng chia Chiến dịch Át-lăng ra làm ba bước. Bước một chúng tập trung khoảng 25 tiểu đoàn đánh chiến thị xã Tuy Hòa và toàn tỉnh Phú Yên trên ba hướng từ đường biển đổ bộ đánh vào, từ Khánh Hòa đánh ra và từ Đắc Lắc đánh xuống. Bước hai chúng đánh chiếm Quy Nhơn và toàn tỉnh Bình Định cũng theo ba hướng từ Phú Yên đánh ra, từ An Khê đánh xuống và đổ bộ đường biển đánh vào. Bước thứ ba được chúng xem là bước quyết định nhất, đánh chiếm thị xã Quảng Ngãi - thủ đô kháng chiến của Liên khu 5 bằng bốn mũi từ Bình Định đánh ra, Quảng Nam đánh vào, Kon Tum đánh xuống và từ biển đổ bộ đánh vào.
Mưu toan là thế nhưng thực hiện đâu có dễ. Ý đồ và tham vọng của địch sớm bị ta phát hiện. Sau nhiều cuộc họp bàn ở các cấp, quân và dân Liên khu 5 xác định quyết tâm đánh địch, bảo vệ vùng tự do. Nhưng chặn đánh chúng như thế nào trong điều kiện ta còn nhiều khó khăn, đặc biệt là VKTB còn thiếu thốn, thô sơ, đây là việc phải tính toán rất thận trọng, kỹ lưỡng…
Về chuyện này ông Quyền cho tôi số địa chỉ để liên hệ với cựu chiến binh Nguyễn Tự, nguyên là cán bộ tác chiến thuộc Tiểu đoàn 40, Trung đoàn 96 trong trận Đắk-pơ, hiện là Trưởng ban liên lạc cựu chiến binh Trung đoàn 96. Cựu chiến binh Nguyễn Tự kể: Có nhiều phương án được đưa ra nhưng nổi lên có hai phương án chính. Thứ nhất là tung lực lượng chủ lực xuống các tỉnh đồng bằng vừa làm nòng cốt vừa phối hợp với lực lượng tại chỗ để chặn địch, bảo vệ vùng tự do. Thứ hai là giao nhiệm vụ bảo vệ vùng tự do cho lực lượng tại chỗ của các địa phương, còn lực lượng chủ lực của Liên khu thì tấn công lên Tây Nguyên, đánh thẳng vào khu vực bàn đạp để buộc địch phải quay về giữ vùng chiến lược này…
 |
|
Cựu chiến binh Trương Quang Quyền bên những kỷ vật thu được trong trận Đắk-pơ.
|
Phân tích kỹ tình hình, ta thấy nếu thực hiện phương án hai thì vừa bảo vệ được vùng tự do, vừa mở rộng được vùng du kích, vùng giải phóng mà vẫn tiêu hao, tiêu diệt được sinh lực địch. Do đó quân và dân Liên khu 5 thống nhất chọn phương án thứ hai. Mọi công tác chuẩn bị chiến trường, phát triển lực lượng được triển khai rất nhanh. Lực lượng tại chỗ sẵn sàng làm nhiệm vụ bảo vệ vùng tự do, lực lượng chủ lực mở chiến dịch hành quân lên Tây Nguyên diệt giặc.
Trung đoàn 96 được tái lập
Thực hiện bước một của Chiến dịch Át-lăng, ngày 20-1-1954, quân Pháp sử dụng 4 binh đoàn cơ động (binh đoàn số 10, 100, 41 và 42) gồm 25 tiểu đoàn đánh lên Phú Yên. Lực lượng nòng cốt trực tiếp nhất trong cuộc hành binh này là Binh đoàn cơ động 100.
Mở màn chiến dịch, Trung đoàn 108 – chủ lực của Liên khu 5 được giao nhiệm vụ tiêu diệt cứ điểm Mang Đen – xương sống trong cụm phòng thủ phía Đông, tỉnh Kon Tum của Pháp. Đây là một cứ điểm được xây dựng hết sức kiên cố, VKTB hiện đại... Chẳng thế mà bọn địch ở đây thường huênh hoang rằng “Nước sông Re chảy ngược Mang Đen mới bị mất”.
Đêm 27-1-1954, sau khi hỏa lực chế áp, các mũi quân ta tiến vào mở cửa đột phá. Quân địch dựa vào boong ke chống trả quyết liệt, tình hình trở nên gay go. Vào thời khắc ấy, Tiểu đoàn 79 (Trung đoàn 108) đưa ra phương án tổ chức lực lượng tập kích đánh cả vào sau lưng địch. Sau khi cân nhắc, phương án của Tiểu đoàn 79 được phê duyệt. Bất ngờ bị đánh cả trước mặt và sau lưng nên quân địch ở Mang Đen không kịp trở tay... Chiến thắng Mang Đen tạo ra một phản ứng dây chuyền, bộ đội chủ lực và lực lượng tại chỗ của các địa phương lần lượt tấn công tiêu diệt thêm nhiều cứ điểm phá tung hệ thống phòng ngự của địch ở Bắc Tây Nguyên, khiến cho Chiến dịch Át-lăng bị sa lầy.
Theo thông tin mà ta nắm được thì Binh đoàn cơ động 100 (GM-groupement mobile) do tên Đại tá Ba-ru (Barrou) chỉ huy, với lực lượng rất mạnh vừa được địch kéo từ Triều Tiên sang, nó đã từng đụng đầu với liên quân Trung – Triều nhưng chẳng hề hấn gì. Biết rõ ý đồ của địch, sau khi giao lại nhiệm vụ bảo vệ vùng tự do cho lực lượng địa phương, toàn bộ quân chủ lực của ta được dồn lên đánh địch trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên.
Tình hình chiến trường phát triển hết sức nhanh chóng. Để đáp ứng kịp yêu cầu, ngày 1 tháng 5 năm 1954, Trung đoàn 96 - chủ lực Liên khu 5 được tái lập ngay trên tuyến lửa với 3 tiểu đoàn gồm: Tiểu đoàn 30, 40, 79 và 2 đại đội hỏa lực... Nói là tái lập bởi theo cựu chiến binh Nguyễn Tự, Trung đoàn 96 được thành lập từ những ngày đầu chống Pháp ở Đà Nẵng nằm trong biên chế của Đại đoàn 31. Qua nhiều lần tổ chức biên chế lại, Trung đoàn 96 đã không còn.
Đồng chí Nguyễn Minh Châu được trên “chọn mặt gửi vàng” giao làm Trung đoàn trưởng (trước đó đồng chí Nguyễn Minh Châu là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 108). Đồng chí Nguyễn Hữu Thành làm Chính ủy. Trung đoàn 96 khẩn trương củng cố biên chế, tổ chức huấn luyện. Cựu chiến binh Nguyễn Tự nhớ lại: Trung đoàn lớn nhanh như Phù Đổng, chỉ sau chưa đầy 2 tháng đã đủ sức bước vào một trận đánh lớn. Khi tái lập Trung đoàn 96, Tiểu đoàn 30 vẫn đang làm nhiệm vụ đánh địch đổ bộ ở Quy Nhơn, còn Tiểu đoàn 40 và Tiểu đoàn 79 cùng toàn đơn vị cấp tốc hành quân làm nhiệm vụ phối hợp với Trung đoàn 108 tiếp tục cắt đứt quốc lộ 19. Thực hiện kế “Điệu hổ ly sơn” quân ta khống chế không cho địch từ Plei-cu tiếp tế xuống An Khê, tạo thế bao vây buộc quân địch phải rút ra khỏi An Khê. Đồng thời xây dựng kế hoạch tiêu diệt địch khi chúng rút chạy theo đường 19 về Plei-cu.
Kế “Điệu hổ ly sơn” này của quân ta đã phát huy hiệu quả rất rõ rệt. Do không được tiếp tế, chi viện kịp thời lại bị quân và dân Liên khu 5 quần cho "ăn không ngon, ngủ không yên" nên vào trung tuần tháng 6 năm 1954, tình hình quân Pháp ở An Khê hết sức nguy khốn. Bộ tư lệnh Mặt trận nhận định: Địch sẽ rút khỏi An Khê. Nhiệm vụ tiêu diệt quân địch rút chạy trên đường 19 được giao cho Trung đoàn 96.
DANH SÁCH 93 TRONG TỔNG SỐ 147 CÁN BỘ, CHIẾN SĨ HY SINH TRONG TRẬN ĐÁNH ĐẮK-PƠ (do UBND huyện Đắk-pơ cung cấp)
1) Võ Duyên – quê Tuy Phước, Bình Định; 2) Lê Định - quê Quảng Ngãi; 3) Trần Nhất – quê Quảng Ngãi; 4) Nguyễn Công - quê Hoài Nhơn, Bình Định; 5) Nguyễn Xuân Lượng - quê Hoài Nhơn, Bình Định; 6) Hồ Biền - quê Hoài Nhơn, Bình Định; 7) Nguyễn Hữu Sen - quê Diễn Châu, Nghệ An; 8) Nguyễn Văn Tâm - quê Hoài Nhơn, Bình Định; 9) Mai Viết Lượng - quê Hoài Nhơn, Bình Định; 10) Nguyễn Mài - quê Hoài Nhơn, Bình Định; 11) Võ Văn Đinh - quê Quảng Nam; 12) Nguyễn Sĩ Chiến - quê Hoài Nhơn, Bình Định; 13) Nguyễn Văn Hưởng – quê Quảng Nam; 14) Nguyễn Thành Mai – quê Quảng Nam; 15) Lê Tấn Đắc – quê Quảng Nam; 16) Lâm Khắc Dung - quê Hoài Nhơn, Bình Định; 17) Trần Đức Thăng - quê Hoài Nhơn, Bình Định; 18) Ngô Văn Sơn - quê Bình Định; 19) Trần Văn Lý - quê Bình Định; 20) Nguyễn Văn An - quê Phù Mỹ, Bình Định; |
Kim Lân