Kỳ II: Bản nghèo đổi thay

QĐND - Ngoài việc trồng cao su, Công ty Cổ phần cao su TP Hồ Chí Minh còn tổ chức làm đường, xây dựng hệ thống nước tưới và giải quyết công ăn việc làm cho người dân, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn nơi đây. Từ một vùng đất nghèo nàn, cơ sở vật chất thiếu thốn, giờ đây, nhiều làng bản ở Chăm-pa-sắc đã khoác một tấm áo mới, với những cánh rừng cao su ngút ngàn.

Thay đổi tập quán làm ăn

Ngày trước, phần lớn người dân nông thôn ở huyện Khổng sống chủ yếu dựa vào độc canh cây lúa, một năm sản xuất một vụ nên đời sống còn nhiều khó khăn. Anh Nguyễn Thanh Nhựt, Chánh Văn phòng lực lượng TNXP TP Hồ Chí Minh, kể một câu chuyện vui: “Hồi TNXP thành phố mới sang Lào khai phá vùng đất mới, thấy người dân bản Set Nậm Ỏn làm ruộng manh mún, trên những thửa ruộng nhỏ và phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, anh em đã vận động bà con đưa giống lúa mới về trồng và cải tiến sản xuất để cho năng suất gấp đôi. Ví dụ trồng 1ha lúa mỗi mùa được 5 tạ thóc thì nay áp dụng giống mới sẽ được một tấn thóc. Bà con phấn khởi bảo nhau: “Giống của Việt Nam hay quá, vậy chúng tôi chỉ trồng nửa héc-ta thôi là đủ ăn rồi”. Người dân Lào muốn nói rằng giống tốt vậy thì chỉ cần trồng một nửa so với mọi năm vẫn đủ sản lượng, không cần làm nhiều nữa.

Người dân bản Set Nậm Ỏn còn thói quen vét nước đọng lại ở các hố sâu để làm nước sinh hoạt.

Với các dự án trồng cao su, hàng ngàn thanh niên nơi đây đã có công ăn việc làm ổn định, đường sá đi lại thuận tiện... Người dân huyện Khổng nói riêng và nhiều bản làng khác nói chung thường chỉ làm việc từ 9 giờ sáng đến 3 giờ chiều nên trong sản xuất vô cùng khó khăn. Người Lào chịu nắng rất giỏi. Giữa cái nắng hơn 40 độ C họ vẫn làm việc quần quật, còn sáng sớm và chiều mát họ ở nhà vui chơi. Nhờ nỗ lực của TNXP TP Hồ Chí Minh, người dân bản nay đã chịu đi làm từ khi con gà mới gáy và trở về lúc mặt trời đi ngủ. Anh Xen, 23 tuổi, chưa có gia đình, làm bảo vệ cho nông trường phấn khởi nói: “Tôi làm ở đây lương tháng được 1,4 triệu kíp (hơn 3 triệu VNĐ), trong bản nhiều người làm, ai cũng thích người Việt vì họ hướng dẫn chăn nuôi, trồng trọt rất tận tình, cái gì tốt là nói hết cho bà con. Còn chị Phit Xa May, Chủ tịch Hội Phụ nữ bản Tan-pieu, Pha-thum-phon cho biết: “Gia đình có 2ha cao su cũng phối hợp với công ty cao su TP Hồ Chí Minh canh tác. Chúng tôi làm công nhân cho công ty hơn 3 năm rồi. Ở đây, lao động nữ nhiều hơn nam vì theo chế độ mẫu hệ. Đặc biệt là chúng tôi học được người Việt cách làm việc có kế hoạch, đúng giờ giấc, sử dụng các phương pháp khoa học trong chăm sóc cây cao su”.

Ông Nguyễn Quang Tín, Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Nam Lào cho biết: “Công ty Cổ phần Cao su TP Hồ Chí Minh vừa làm kinh tế vừa làm tốt công tác an sinh xã hội, củng cố mối quan hệ hai nước. Vì vậy, mối quan hệ giữa công ty và dân bản thêm chặt chẽ, lao động được bảo vệ, bà con có công ăn việc làm ổn định. Công thức hợp tác kinh tế là: Vốn + lao động + kỹ thuật + thị trường. Hiện nay, chúng ta đã sử dụng lao động tại chỗ (người Lào) là việc làm có ý nghĩa lớn. Thay đổi tập quán làm ăn, đặc biệt là giờ giấc lao động của họ rất khó khăn nhưng người Việt Nam sang đây đã làm được bằng uy tín, lòng tin và chính hiệu quả lao động mà công ty mang lại. Đầu tư tại Nam Lào, phải nói Việt Nam là số 1. Riêng tại Chăm-pa-sắc, đầu tư Việt Nam chiếm 51% tổng đầu tư nước ngoài”.

Bớt nỗi lo thiếu nước

Ở bản Set Nậm Ỏn, huyện Khổng, tỉnh Chăm-pa-sắc, trước kia người dân sống thiếu nước sinh hoạt, chủ yếu là phụ thuộc mùa mưa. Dân trong bản lấy nước dự trữ cho mùa khô. Hôm chúng tôi đến thăm, già làng Bun Tham Phun Thoong, trưởng bản, chậm rãi nói bằng tiếng Việt: “Bản có hơn 160 hộ dân, sống bằng nghề nông là chính. Nhưng vào mùa khô, nước sinh hoạt cũng không có nói chi đến chuyện cấy lúa nên đời sống bà con còn nhiều khó khăn”. Rồi ông dẫn chúng tôi đến con suối giữa bản. Thật ra, nếu không có cây cầu bắt ngang thì tôi cũng không thể nghĩ đó là con suối. Đất đai nứt nẻ, chính giữa thỉnh thoảng có mấy hố sâu đọng lại ít nước. Chúng tôi ngạc nhiên khi thấy nhiều người, trong đó cả người lớn tuổi, trẻ em đến đây vét nước trong các hố đó đổ vào thùng gánh về. Anh Van Xay U Đôm Đêt, nhân viên phòng kế hoạch công ty cho biết: “Con suối này, mùa mưa nước chảy xiết, đồng bào khó lòng lội qua, còn mùa khô thì không có giọt nước nên trở thành đường đi của người, của trâu bò. Vào buổi sáng, các hố sâu tụ nước lại nên nhiều người đến đây lấy nước dùng”.

Già làng Bun Tham Phun Thoong khoe: “Từ ngày TNXP TP Hồ Chí Minh sang đây, xây dựng cho cái giếng khoan gần 13 triệu kíp (tương đương 40 triệu VNĐ), dân trong bản mừng lắm. Nước nhiều, bà con dùng thỏa thích. Không ai phải đi cả mấy cây số gánh nước từ sông Mê Công về nữa”. Tuy nhiên, theo anh Trần Huỳnh Tam, Giám đốc nông trường cao su huyện Khổng, vẫn còn một số người dân ra con suối cạn vét nước tích tụ trong hố về sử dụng theo tập tục ngàn đời của họ, rất mất vệ sinh. Vì thế, anh em cán bộ, công nhân nông trường phải đến từng nhà vận động để họ thay đổi thói quen đó. Từ khi có nguồn nước quanh năm, bà con bản làng yên tâm đi làm cho nông trường, kinh tế ổn định dần. Nhiều gia đình mua sắm được xe máy, một số thiết bị sinh hoạt trong nhà như ti vi, xây dựng nhà cửa vững chắc hơn…

Những căn nhà hữu nghị

Trong thời gian công tác tại Chăm-pa-sắc, chúng tôi được đến thăm những ngôi nhà hữu nghị Việt – Lào do TNXP thành phố xây dựng. Ngôi nhà hữu nghị của ông Phu Khăn, Trưởng bản Ka Đăn, huyện Khổng, khang trang, theo kiến trúc nhà sàn truyền thống của người Lào với nhiều tiện nghi sinh hoạt. Gia đình ông có 5 người đều làm công nhân cho nông trường, riêng ông còn làm thêm công việc chính quyền. Ông Phu Khăn xúc động nói: “Lúc vợ tôi bị bệnh mắt, gia đình lo chạy chữa tốn rất nhiều tiền nên không thể xây được căn nhà. Nhờ công ty và bà con trong bản giúp đỡ, gia đình mới có được tổ ấm như thế này. Người dân bản từ khi làm việc cho công ty đã có thêm thu nhập, cải thiện đời sống, quan tâm hơn đến nâng cao chất lượng sinh hoạt trong gia đình, đặc biệt là chú trọng việc học hành của con cái”.

Ngôi nhà hữu nghị của ông Keo Phalanxi cùng người thân ở bản Tan-pieu, huyện Pha-thum-phon.

Còn tại huyện Pha-thum-phon, ngôi nhà hữu nghị Việt – Lào của ông Keo Phalanxi, phó bản Tan-pieu to lớn hơn vì có nhiều gia đình cùng chung sống. Hồi trước, đường vào bản còn khó khăn nên người dân chỉ làm những căn nhà tạm, sau vài mùa mưa nắng đã hỏng cả. “Khi đội Sản xuất cao su số 1 của Công ty Cổ phần cao su TP Hồ Chí Minh đặt nền móng ở đây với hơn 450ha cao su thì bà con có thêm việc làm, đời sống 315 nhân khẩu nâng lên, bản đổi thay từng ngày”, ông Keo Phalanxi phấn khởi nói. Ngôi nhà hữu nghị có 4 gia đình thân thuộc của ông Keo cùng sinh sống và làm nơi sinh hoạt tập thể của bản, cũng như nơi nghỉ ngơi buổi trưa của các công nhân làm việc ở đội sản xuất cao su. Anh Phùng Đức Dương, Đội trưởng cho biết thêm: “Ông Keo Phalanxi còn là một đảng viên sinh hoạt trong chi bộ của Đội, nên vai trò của ông trong vận động bà con làm việc là rất lớn. Bản còn nhiều gia đình khó khăn về nhà ở, thời gian tới, Ban chỉ huy Đội nghiên cứu đề xuất công ty phối hợp với chính quyền các cấp xây dựng thêm nhiều căn nhà hữu nghị nữa”.

Ông Nguyễn Triều Chánh, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Cao su TP Hồ Chí Minh khẳng định: Có chăm lo được công tác xã hội thì người dân mới gắn bó lâu dài với nông trường, các đội sản xuất và chính quyền sở tại luôn tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của công ty. Hằng năm, công ty còn phối hợp với Thành đoàn TP Hồ Chí Minh tổ chức chương trình “Kỳ nghỉ hồng” tiến hành khám, chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí, tập huấn kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, xây dựng và trao tặng nhà hữu nghị cho người dân các bản. Đến nay, đội ngũ cán bộ, công nhân công ty đã có thể cùng ăn, cùng ở, cùng làm với bà con Lào. Dù còn nhiều khó khăn, công ty vẫn luôn phấn đấu góp phần chăm lo tốt mối quan hệ đoàn kết hữu nghị Việt – Lào.

---------

Kỳ I: Đưa cao su về bản

Kỳ III: Độc đáo Pakse

Bài và ảnh: LÊ HÙNG KHOA