QĐND Online - Đã có thời Mường Tè được coi là chốn rừng thiêng nước độc, là nơi nghèo nàn lạc hậu, khó khăn chồng chất, dân trí thấp, đói nghèo cao, giáo dục kém phát triển. Thời ấy đã qua rồi. Với quan điểm đầu tư cho giáo dục là đầu tư có lợi nhất, bền vững nhất và quan trọng nhất, huyện Mường Tè đã có những quyết sách đúng, trúng và hay để thúc đẩy giáo dục phát triển. Nay Mường Tè đã sánh ngang với nhiều huyện trong cả nước về chất lượng giáo dục khi đạt chuẩn Quốc gia về Phổ cập Giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi và Phổ cập Giáo dục Trung học cơ sở, điều này sẽ mở lối cho tương lai của huyện trong một ngày không xa...

Thầy tốt

Tại Mường Tè đã từng có thời gian thiếu giáo viên trầm trọng. Không chỉ ở các bản xa, làng hẻm mà ngay tại trung tâm huyện cũng vẫn có những giáo viên trình độ "9 cộng", "12 cộng". Đồng chí Trần Đức Hiển - Trưởng phòng Giáo dục huyện kể: "Ngày ấy, vì thiếu giáo viên nên có khi là bộ đội giải ngũ, công nhân cầu đường, học sinh đã tốt nghiệp đều được bố trí đứng lớp". Trước năm 2006, huyện chỉ có hơn một nghìn giáo viên trong đó đa số không đạt chuẩn, đến nay con số ấy đã được nâng lên gấp đôi và tỷ lệ giáo viên dưới chuẩn chỉ còn 1%. Chuyện thiếu lớp, thiếu thầy tại các xã biên giới, vùng cao, vùng sâu, vùng xa là rất phổ biến.

Những khó khăn về trường lớp không làm nản lòng thầy và trò điểm trường Pa Thoóng (Bum Tở - Mường Tè).

Vì thiếu giáo viên nên chất lượng giáo dục cũng bị ảnh hưởng nhiều, thầy giáo dạy Nhạc-Họa có khi phải dạy kiêm cả các môn Vật lý, Hoá học, thầy giáo dạy thể dục lại đứng lớp với những giờ dạy Lịch sử, Địa lý. Có khi cả các anh chị học sinh lớp lớn cũng được huy động để dạy chữ cho các em học sinh bé hơn. Tại khu vực xa trung tâm, một thầy giáo phải kiêm vô số nhiệm vụ, trong đó có khi cả nhân viên trực, bảo vệ trường... Cả ngành giáo dục huyện "căng mình" lên để trám những khoảng trống do thiếu giáo viên.

Xác định việc quan tâm cho giáo dục là việc làm hết sức cần thiết, ngày 17/8/2006, tại kỳ họp Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, Nghị quyết số 08/NQ-BCH về nâng cao chất lượng dạy và học vùng sâu, vùng cao, vùng xa đã được ban hành. Giống như một hồi trống giục, ngay sau Nghị quyết được ban hành cùng những giải pháp được thông qua huyện đã có những phương án thu hút giáo viên tại các tỉnh lên dạy học. Cùng với đó phương án đào tạo, bồi dưỡng giáo viên cũng được đưa ra và thực thi, những giáo viên chưa đạt chuẩn được tạo điều kiện cho đi học, những lớp học sinh mới ra trường được huyện ưu tiên cử đi học tại các trường đại học, cao đẳng theo chương trình cử tuyển... Chỉ sau vài năm lượng giáo viên của huyện đã tăng lên đáng kể cả về lượng và chất.

Giáo viên rất cần thiết nhưng những giáo viên nhệt tình, trách nhiệm, dám đương đầu và vượt qua khó khăn thử thách lại càng cần gấp bội. Điều này thì không có một quy định cụ thể nào của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tinh thần trách nhiệm nhưng tại Mường Tè nó được hiện thực bằng sự yêu thương học sinh, hết mình vì công việc, giúp đỡ đồng bào, kiên trì bám lớp, bám bản, bám đồng bào. Tôi đã từng gặp những thầy, cô giáo từ Hưng Yên, Thanh Hoá tại các điểm trường ở các xã Ka Lăng, Pa Ủ, Mù Cả... Trên bục giảng họ là những người thầy, cô giáo tuyệt vời, kiên trì hướng dẫn tỉ mỉ từng chút cho các em học sinh để các em nắm được kiến thức; ngoài giờ họ là những kỹ sư trong sáng tạo đồ dùng dạy học, đến bản họ lại là những người con, người anh trong mỗi gia đình; cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc với đồng bào. Sáng đón học sinh đến lớp chiều đưa các em về bản. Nhiều giáo viên đã nhường cơm, sẻ áo, thậm chí mang cả đồ dùng của chính con mình cho học sinh dùng. Đã có những tấm gương giáo viên nhận nuôi hết em học sinh này đến học sinh khác để các em có thể theo học. Đã có những bức thư nơi biên cương heo hút làm rất nhiều giáo viên học sinh ở Thủ đô rơi lệ bởi nội dung của nó rất chân thật về cuộc sống, điều kiện dạy và học ở nơi đây. Để rồi có những chuyến hàng mà trong đó chỉ là những bộ đồng phục đã sử dụng, những chiếc bảng, những tập sách được gửi từ Hà Nội lên mãi tận vùng Bum Tở, Pa Ủ, ghi đích danh người nhận nhưng cả người gửi và người nhận chưa hề biết nhau. Nơi đây thậm chí còn có cả những giáo viên nhận đỡ đầu, giúp đỡ các gia đình đồng bào khó khăn để ngoài việc trang bị kiến thức cho con cái của họ, còn trang bị thêm cả tri thức, kỹ năng trong sinh hoạt, sản xuất. 

Trò ngoan

"Thầy giỏi sinh trò ngoan", quả đúng như vậy. Tại nhiều vùng, ở nhiều nơi trên mảnh đất này, ngày trước đã có lúc việc theo đòi sự nghiệp bút nghiên là giấc mơ xa xỉ với nhiều học sinh. Đến nay dù còn vô vàn khó khăn, dù nơi này nơi khác vẫn còn có học sinh không thể theo hết con đường học tập thì nhìn tổng thể giáo dục nơi đây giống như cỗ xe đã thắng sức ì lao băng băng về tương lai mà không kể một vài chướng ngại vật nho nhỏ.

Nếu như những năm 2006 tổng số học sinh trên địa bàn chỉ có 11.1963 học sinh, thì đến hết năm học 2009 - 2010 đã tăng lên 15.454 học sinh.

Giờ thể dục của học sinh trường THCS xã Mường Tè.

Phong trào học tập được nâng lên đã tạo ra những tấm gương học sinh vượt khó học giỏi đạt được những kêt quả cao trong học tập. Nếu cách đây vài năm ai đó nói Mường Tè có học sinh giỏi quốc gia thì chắc đó là điều hoang tưởng. Nhưng, đến nay, huyện đã có những học sinh đạt giải Nhì, giải Ba trong các kỳ thi Vở sạch chữ đẹp, huyện đã có những đội học sinh giỏi tham gia các kỳ thi học sinh giỏi của tỉnh. Tỷ lệ học sinh giỏi của huyện đạt 5%, khá đạt 20%. Điều này nghĩa là cứ 100 em học sinh ở Mường Tè thì có 2,5 em đạt danh hiệu khá hoặc giỏi. Tuy còn là nhỏ bé so với nơi này nơi khác ở các tỉnh phát triển nhưng ở nơi mà các phong tục tập quán, các hủ tục lạc hậu, điều kiện kinh tế, điều kiện hạ tầng và vô số điều kiện khác như đồng thanh chống lại ngành giáo dục thì đó quả là con số đáng tự hào.

Tôi đã được gặp các em học sinh ở khu nhà bán trú dân nuôi các xã Pa Ủ, Ka Lăng, Pa Vệ Sủ, Mù Cả và gặp cả những ước mơ rất ngây thơ, thánh thiện và đẹp đẽ của các em dù cuộc sống hàng ngày các em phải vượt qua những khó khăn khó mà hình dung được.

Nơi ở là những dãy nhà tranh tre, hoặc khá hơn là nhà gỗ, nhà xây cấp 4. Giường ngủ là những thân luồng trải dập ra. Chẳng có chiếu chỉ một manh chăn mỏng thủng như lưới ruồi. Dụng cụ học tập thì chỉ đạt được về "cơ bản" thước kẻ, com pa, bảng, phấn đều được các em "sáng tạo" từ những thanh tre thanh nứa, thậm chí cả đá suối thay phấn. ở những nơi chưa có điện, nến là thứ xa xỉ, thì một chiếc vỏ lon nước ngọt, một tim đèn làm từ quần áo cũ, một ít tiền cha mẹ cho để mua dầu thế là những "xóm nội trú" đêm đêm vẫn sáng đèn bên sách. Khó nhất là các em đang tuổi ăn tuổi lớn nhưng có lẽ ước mơ về một bữa cơm no có lẽ phải là cuối chặng đường học tập các em mới đạt được. Một nắm rau rừng, một dúm muối trắng và một nồi cơm đỏ khê vỏ trấu là thực đơn quen thuộc của các em. Cá khô dành cho buổi liên hoan còn thịt tươi là điều mơ ước. Sau mỗi buổi học, rừng là "cái tủ lạnh" tuyệt vời cho các em bởi ở đó là nơi các em có thể tìm rau, măng và những loại lá mà dân đi rừng thường xuyên như tôi vẫn còn cảm thấy lạ hoắc để làm thức ăn. Suối là nơi tắm mát nhưng cũng là "ao nhà" của những em học sinh được bạn bè "tấn phong" cho là con rái cá.

Tự lo ăn (nhiều gia đình không lo được cho con nên các em chỉ có mỗi tháng 10kg gạo do Nhà nước hỗ trợ), tự lo mặc, tự may vá thêu thùa và những ước mơ của các em cũng hình thành một cách hết sức tự nhiên như vậy. Mỗi hoàn cảnh gia đình, mỗi thần tượng hình thành cho các em một mơ ước. Có em muốn làm thầy giáo, có em thì thích làm cán bộ y tế, lại có em thích làm công an thậm chí làm cả chủ tịch xã. Tôi không biết sẽ có bao nhiêu bàn tay với được tới ước mơ nhưng việc các em biết ước mơ về tương lai, và biết rằng ước mơ đó chỉ thực hiện được bằng con đường học tập thì đã có thể khiến cho nhiều người tâm huyết với giáo dục nơi đây đủ để rơi lệ vì mừng. 

Cơ sở vật chất ngày một tốt

Điều đáng mừng nữa là đến nay huyện đã xoá được bản trắng lớp học mầm non. Dù là nhà tranh, nhà gỗ dù là học sinh ít hay nhiều nhưng trẻ em ở tất cả các bản trên địa bàn đều được học múa, học hát, học nói tiếng phổ thông và làm quen với chữ cái. Đây là một nỗ lực tuyệt vời của huyện. Đồng chí Tống Thanh Hải - Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch HĐND huyện cho biết: "Vì xuất đầu tư quá lớn nên việc xây dựng các phòng học kiên cố tại các xã vùng sâu, xa là rất khó khăn.

Học sinh trường bán trú dân nuôi Pa Ủ tự trồng rau cải thiện bữa ăn.

Nếu không có sự hỗ trợ của các ngành, không có sự vào cuộc của các cấp, sự đồng thuận của nhân dân và tâm huyết của các nhà thầu vì ngành giáo dục thì rất khó thực hiện được. Khi Nghị quyết số 08/NQ-BCH Huyện uỷ được ban hành toàn huyện chỉ có 48 đơn vị trường học có 118 phòng học kiên cố; 173 phòng học bán kiên cố còn lại là phòng học tạm. Đến nay huyện đã xây mới được thêm 41 trường học, kiên cố hoá được thêm 386 phòng học, nâng tổng số phòng học kiên cố lên 559 phòng học. Như vậy là trên huyện đã có nhiều hơn 559 lớp học có quạt trần, có bóng điện, cửa kính, gạch hoa. Mùa đông không sợ gió lùa, mùa hè chẳng lo mưa dột.

Cùng với đó, sự vào cuộc của các lực lượng, các ngành, nhất là khối cơ quan, đoàn thể của huyện và sự hỗ trợ  hết mình không biết mệt mỏi của lực lượng cán bộ, chiến sỹ các đồn biên phòng đã khiến cho bộ mặt giáo dục ở các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa đã được thay đổi đáng kể.

Từ việc dựng phòng học tạm, phòng học bán kiên cố rồi nâng thành kiên cố, từ việc giáo viên đứng lớp mang quân hàm xanh đến các giáo viên chính quy đạt chuẩn. Tất cả đã, đang và mở ra cho Mường Tè những bước đi vững chắc vào tương lai.

Bài, ảnh: Khánh Kiên