QĐND - Về rừng Cát Tiên gặp các thầy cô đang "cắm bản" ở đây, chúng tôi không chỉ thấm thía nỗi vất vả, nhọc nhằn của những người đi ươm chữ vùng cao mà còn cảm phục trước tinh thần dấn thân, cống hiến mà họ đã và đang dành tặng cho vùng đất này.
Khi chúng tôi đề nghị lên thăm hai điểm trường tại thôn 3 và thôn 4 của Trường Tiểu học Phước Cát 2, xã Phước Cát 2, huyện Cát Tiên (Lâm Đồng), thầy giáo Nguyễn Văn Nam, Bí thư Chi bộ, Phó hiệu trưởng nhà trường sau một hồi đắn đo quay sang chỉ vào mấy chiếc xe gắn máy, nói:
- Thôi được! Nhưng để tôi kiếm mấy chiếc xe khác đưa nhà báo đi, xe này không đi được đâu!
Chiếc Future của tôi mới tậu cách đây vài tháng để đi rừng, kim đồng hồ công tơ mét mới chỉ hơn 3.000km. Nó đã cùng tôi băng băng vượt qua mọi địa hình hiểm trở trong nhiều chuyến tác nghiệp trên vùng đất cao nguyên, thế mà thầy Nam nói xe này không đi được. "Thầy có đùa không đấy?”-tôi nhủ thầm trong bụng.
 |
Lớp 4+5 tại điểm trường thôn 3 do cô Lê Thị The phụ trách.
|
Từ điểm trường trung tâm, chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình lên điểm trường thôn 3. Sau vài cây số len lỏi dưới những vườn điều rậm rạp, con đường đất nhỏ bắt đầu chạy giữa một bên là đồi núi điệp trùng, một bên là sông Đồng Nai cuồn cuộn, ngả nghiêng, mặt nước đỏ ngầu như mặt người say. Nhiều đoạn trơn như đổ mỡ, vừa chạy vừa phải rà 2 chân xuống đất đề phòng trượt ngã, vậy mà có lúc cả người và xe trôi tuột đi như bị ma làm, chẳng tài nào điều khiển nổi. Được biết, từ năm 2012 trở về trước, từ trung tâm xã muốn lên thôn 3 phải đi bằng thuyền ngược theo dòng sông Đồng Nai hoặc đi bộ theo lối mòn trong rừng. Nay nhờ con đường mới mở, việc đi lại đã trở nên thuận tiện hơn. Tuy nhiên, vào mùa mưa, nước suối dâng cao, đất đá sạt lở, con đường trở nên vô tác dụng, thôn 3 vẫn bị cô lập và các giáo viên dạy ở điểm trường này có khi cả tháng không thể về nhà.
Thôn 3 có vài chục hộ người dân tộc S’tiêng sống biệt lập trong một khu vực giữa Vườn Quốc gia Cát Tiên, cách trung tâm xã khoảng 30km. Có thể dễ dàng nhận ra sự nghèo khó ở đây qua những ngôi nhà trống huênh giữa bời bời cỏ dại, những đứa trẻ còi cọc, chân trần, tóc hoe vàng cháy nắng. Điểm trường thôn 3 vừa khánh thành vào dịp hè năm ngoái, các phòng học đều được trang bị bóng đèn, quạt điện, công tắc nhưng chúng chỉ để trang trí cho vui vì ở đây chưa có điện. Điểm trường có 23 học sinh, trong đó lớp 1 có 8 em, lớp 2 có 3 em, lớp 3 có 7 em, lớp 4 có 4 em và lớp 5 có 2 em. Học sinh ít nên phải học ghép, trong các phòng học, mỗi chiếc bảng thường được chia đôi, nếu lớp này học môn Tiếng Việt thì lớp kia học môn Toán. “Dạy 2 môn khác nhau giúp cho các em bớt phân tâm và tiếp thu bài tốt hơn”-cô Lê Thị The, giáo viên dạy lớp 4+5, giải thích.
Do địa bàn rộng, dân cư sống phân tán nên Trường Tiểu học Phước Cát 2 có tới 5 điểm trường khác nhau. Có nơi cách xa điểm trường trung tâm hơn 40km. Với các điểm trường xa, nhà trường cử giáo viên luân phiên lên dạy trong thời hạn 1 năm, hết hạn sẽ có người khác lên thay thế. Hiện có 3 cô giáo đang “cắm bản” tại đây là Lê Thị The, Lý Thị Yêu và Phạm Thị Hương. Công tác ở vùng sâu, ngoài lương chính chỉ được thêm 0,7% phụ cấp, chưa đủ đổ xăng và sửa xe nhưng các cô chưa bao giờ cảm thấy thiệt thòi. "Điều trăn trở nhất của chúng tôi là giấc mơ của các em học sinh ở đây chưa thành hiện thực. Cháu nào cũng thích học, cháu nào cũng mơ ước trở thành kỹ sư, bác sĩ, cô giáo nhưng rồi càng học lên cao càng rơi rụng, đến nay cả thôn chưa người nào học hết cấp 3"-cô Phạm Thị Hương buồn bã cho biết.
Chia tay với cô trò tại điểm trường thôn 3, chúng tôi tiếp tục lên đường tới thôn 4. Trên đường đi, các cán bộ kiểm lâm khuyên chúng tôi nên quay về vì mấy ngày qua trời mưa, đường ướt, nhiều cây đổ, rất nguy hiểm. “Lẽ nào vượt qua mấy trăm cây số tới đây lại trở về? Nếu không đi được xe máy thì đi bộ”. Chúng tôi thống nhất như vậy và tiếp tục đi. Tuy nhiên, sự háo hức ngay lập tức biến mất khi gặp con dốc đầu tiên. Không chỉ gây choáng ngợp về độ cao, độ dài, con dốc còn khiến người đi đường e ngại bởi bề mặt trơn trượt cùng những rãnh sâu hoắm như những chiếc bẫy giăng ra, sẵn sàng phản công người đi đường. Chỉ cần 1 sơ suất nhỏ, người và xe sẽ bị hất ngược trở lại và lăn lông lốc về phía sau. Có đoạn dù ra sức ga, ra sức đẩy nhưng chiếc xe chỉ xoay ngang rồi lồng lên bất lực. Thầy Nam cho biết, nhiều người bị kiệt sức hoặc gãy tay, gãy chân khi vượt qua con dốc này. Để vượt qua dốc, những chiếc xe gắn máy thường phải cải tiến cho khác đi so với quy chuẩn, ví dụ như: Bỏ yếm, bỏ gương, cuốn xích vào bánh, sửa bộ chế hòa khí. Vào ngày mưa, việc đi xe qua dốc là điều không tưởng.
Sau một hồi đánh vật với rất nhiều cách như kéo, bò, đẩy, khiêng, cùng vô số lần trượt ngã, cuối cùng chúng tôi cũng lên tới đỉnh. Tưởng thoát, ai ngờ trước mặt là "thập diện mai phục" đang bày ra. Từ đây, con đường chỉ còn là lối mòn chạy vòng vèo giữa hun hút rừng già, mặt đường tối, gập ghềnh, trơn trượt, nhiều đoạn cây cỏ phủ kín phải vén lối mà đi, đôi chỗ ánh sáng lọt qua kẽ lá tạo nên thứ ánh sáng chập chờn, loang loáng càng khiến cho người đi đường thêm hoa mắt. Để khỏi ngã, chúng tôi phải di chuyển thật chậm, hai tay điều khiển cho bánh xe chạy vào đúng vết xe của người đi trước, mắt căng ra quan sát, vừa nhìn đường vừa phải đề phòng cây đập vào người. Giữa đường muốn dừng lại một chút để nghỉ cũng không dám vì lũ vắt đông như trấu, hễ thấy hơi người là nhảy ra bâu kín để hút máu.
Khi người và xe ngập ngụa trong bùn đất, toàn thân mệt mỏi rã rời thì thôn 4 cũng hiện ra trước mặt, các thầy tại điểm trường này đón chúng tôi trong nỗi vui mừng xen lẫn ngạc nhiên. "Hôm qua tôi vừa từ nhà lên đây, khi vượt dốc bị ngã 5 lần, bây giờ cả người vẫn còn đau ê ẩm, cứ ngỡ các anh không lên được vậy mà các anh cũng tới"-thầy Trần Hoài Bão xúc động nói.
Thôn 4 có ba chục nóc nhà nhưng chỉ có điểm trường tiểu học và trạm y tế là nhà xây. Điện lưới chưa có, những chiếc điện thoại ở đây cũng vô tác dụng vì không có sóng. Được biết, hiện phí vận chuyển 1kg vật liệu như gạch, cát, đá từ bờ sông Đồng Nai lên đây mất 2.000 đồng. Vào ngày nắng ráo vẫn có người mang nhu yếu phẩm như: Xăng, muối, mắm, cá, thịt… lên bán cho đồng bào nhưng tất cả đều đắt gấp đôi, gấp ba lần so với dưới chợ xã. Do vị trí xa xôi, đi lại quá khó khăn nên nhiều năm qua, nhà trường chỉ phân công các thầy giáo lên đây dạy học. Điểm trường thôn 4 có 16 học sinh, chia thành 3 lớp ghép do các thầy: Nguyễn Quang Thạc, Nguyễn Xuân Trà và Trần Hoài Bão phụ trách. Thầy Bão và thầy Trà đã có gia đình ở dưới xuôi, riêng thầy Thạc năm nay đã 47 tuổi vẫn chưa lập gia đình. Thôn 4 chưa có trường mẫu giáo, em nào đến tuổi thì đi học lớp 1. Những ngày đầu tới lớp, nhiều em chẳng biết nói tiếng Kinh, thầy hỏi gì cũng "ơ-ghít" (không biết), trước khi dạy chữ, các thầy phải dạy tiếng Kinh cho học sinh.
Ngày ở rừng Cát Tiên trôi qua nhanh, đêm thẳm sâu và cô tịch. Tại nhà của già làng Điểu K’Reng, người dân chào đón chúng tôi bằng những bát rượu đầy tràn cùng những câu chuyện bất tận về quá khứ, hiện tại và ước mơ. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, vùng này thuộc Chiến khu Đ, thôn 4 là nơi nuôi giấu bộ đội và cán bộ cách mạng. Nhiều lần giặc đánh hơi phát hiện ra, chúng điều máy bay tới ném bom rải thảm khiến toàn thôn bị san phẳng nhưng người dân vẫn kiên cường bám trụ. Ngày nay, dấu vết của thời lửa đạn vẫn còn đó qua những hố bom dày đặc và cả những huân chương kháng chiến được treo trang trọng trong các gia đình.
Nếu quá khứ được nhắc tới bằng tất cả niềm tự hào thì hiện tại lại ngổn ngang nỗi niềm trăn trở. Cuộc sống của 33 hộ và 142 nhân khẩu trong thôn hiện chỉ trông chờ vào 150ha điều, 7ha đất trồng lúa và một ít thu nhập từ nhận khoán bảo vệ rừng. Năm nào mưa thuận gió hòa chỉ đủ ăn, gặp năm thời tiết bất thường, mất mùa, người dân phải vào rừng hái rau, bẻ măng đắp đổi qua ngày. Sự xa xôi, cách trở cùng cuộc sống khốn khó khiến việc học hành của con em trong thôn trở thành nhu cầu xa xỉ. Để "giữ lửa" cho giấc mơ chữ nghĩa, các giáo viên tại điểm trường thôn 4 vừa là thầy giáo, vừa là cán bộ dân vận. Không chỉ thường xuyên gặp gỡ, động viên phụ huynh tạo điều kiện cho con em tới lớp đầy đủ, vào lúc rảnh rỗi, các thầy còn xuống giúp dân dọn vườn, thu hoạch điều, cắt tóc, hướng dẫn trồng rau xanh, mỗi lần về thăm nhà đều tranh thủ xin quần áo cũ, sách vở mang lên, em nào thiếu thì cho. Đến nay, ngoài 16 học sinh đang học bậc tiểu học, cả thôn đã có 10 em học từ lớp 6 đến lớp 11 tại Trường Dân tộc nội trú 3 huyện phía Nam tỉnh Lâm Đồng. "Nếu có một con đường thì có lẽ cuộc sống của bà con sẽ tốt hơn và chuyện học hành của lũ trẻ cũng đỡ phần vất vả"-Điểu K'Ru, Bí thư Chi bộ thôn mong ước như vậy.
Kể từ khi điểm trường này được mở ra vào năm 2001, đây là lần thứ ba thầy Trần Hoài Bão và hai đồng nghiệp trở lại vùng đất này dạy học. Với các giáo viên của Trường Tiểu học Phước Cát 2, cuộc đời dạy học là những chuỗi ngày rong ruổi nơi rừng sâu núi thẳm. Năm nay dạy điểm trường này, năm sau lại đi dạy điểm trường khác. Xa gia đình liên miên, cuộc sống thiếu thốn mọi bề, có người vì hoàn cảnh công tác mà lỡ dở hạnh phúc riêng tư nhưng tình yêu đối với nghề nghiệp và các em học sinh như ngọn lửa không bao giờ tắt. Ngọn lửa ấy đã và đang âm thầm sưởi ấm những giấc mơ và thắp lên niềm hy vọng về một tương lai tươi sáng hơn cho những buôn làng còn nhiều gian khó giữa rừng già Cát Tiên.
Bài và ảnh: VŨ ĐÌNH ĐÔNG