Vợ chồng ông và hai đứa cháu nội mồ côi sống trong ngôi nhà nhỏ cuối phố ở phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên (tỉnh Thái Nguyên) bên cánh đồng và dòng sông Cầu lộng gió. Mặc dù đã ở tuổi 76, lại phải chống trả với những cơn nhồi máu cơ tim nhưng do kiên trì rèn luyện nên ông vẫn khá hoạt bát. Ông là Lê Văn Thục, chú bé liên lạc năm xưa được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tặng thơ khen.

Năm 1946, Lê Văn Thục (tên thật là La Công Thục) ở bản Lá, xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa (Thái Nguyên) nằng nặc đòi gia đình cho đi theo kháng chiến. Thời gian này, Trung ương đang khẩn trương xây dựng ATK (an toàn khu) và xã Điềm Mặc ở trung tâm “Thủ đô kháng chiến” nên ngùn ngụt khí thế cách mạng. Mọi gia đình đều tự nguyện nhường nhà, nhường đất cho cơ quan Chính phủ. Ban ngày, người dân trong vùng vào rừng chặt tre, nứa dựng lán, làm nhà kho, "xây" trụ sở phục vụ các cơ quan, tối tối tham gia dân quân tự vệ, theo các lớp bình dân học vụ.

Gia đình ông La Công Kế, bố đẻ của chú bé La Công Thục vốn có truyền thống cách mạng. Trước đây, ông bà từng nuôi giấu nhiều đồng chí cán bộ. Đồng chí Hoàng Văn Thái (nguyên Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam) nhận mẹ ông Kế làm mẹ nuôi, vì thế nguyện vọng cho chú bé Thục, mới 12 tuổi (ông Thục sinh ngày 15-12-1934), theo kháng chiến dễ dàng được chấp nhận. Ban đầu, chú bé được nhận vào Trại tăng gia của Bộ Quốc phòng (đóng tại Bản Bắc, xã Điềm Mặc) vẫn làm công việc quen thuộc chăn trâu, cắt cỏ như khi còn ở nhà, nhưng nhiệm vụ chính là canh gác cảnh giới người lạ lảng vảng gần khu vực cơ quan. Trại tăng gia chính là “cổng sau” của Tổng hành dinh nên ngoài nhiệm vụ tăng gia cung cấp lương thực, thực phẩm cho cơ quan Trung ương, đây còn là nơi trọng yếu trong việc bảo vệ ATK.

Ông Lê Văn Thục và cháu ngoại xem cuốn sách “Đại tướng Võ Nguyên Giáp với Thái Nguyên”.

Tổ “Tam tam” (ba người) của La Công Thục có các anh Trần Văn Quý, Nguyễn Văn Hải và Lê Xuân Dực. Anh Dực được phân công chăm sóc, dạy dỗ chú bé La Công Thục. Hằng ngày, anh uốn nắn cho chú từng nền nếp sinh hoạt nhỏ; dạy chú biết nội quy, kỷ luật của quân đội, của cơ quan, làm quen với công tác liên lạc. Tối tối, sau khi đã hoàn tất nhiệm vụ được giao, dưới ánh đuốc nhập nhòe, anh Dực vừa nắn cho chú từng nét chữ viết trên tấm bảng làm từ ống nứa đập dập, vừa khâu vá quần áo cho chú. Với tình cảm chân thành, chú kết nghĩa anh em với anh Dực và đổi tên thành Lê Văn Thục.

Đến năm 1947, Thục đã thuộc lòng mọi đường ngang ngõ tắt của ATK, tính tình cẩn thận lại nói tiếng phổ thông khá lưu loát nên thường được cử đưa cán bộ đi công tác. Mỗi khi về vùng xuôi, chú và thủ trưởng thường cải trang thành cha con đi thăm người nhà. Lần ấy, từ vùng tề Bắc Ninh trở về, trong bộ quần áo nâu, khẩu mút-ca-tông giấu sau lưng áo, chú còn được giao một tay nải đựng nhiều nhu yếu phẩm cho cơ quan. Vì mang theo hàng hóa quan trọng nên hai người đi tách nhau để tránh địch nghi ngờ. Khi ngang qua cánh đồng thuộc khu vực Cầu Đuống, tên lính Pháp vừa đổi gác trong bốt canh phát hiện ra chú bé. Hắn quát: “Thằng bé đứng lại!”. Thấy chú bình tĩnh đi tiếp, hắn liền vác súng đuổi theo. Lợi dụng cánh đồng đang mùa gặt, nông dân chất lúa thành từng đống cao để chờ đập, chú lừa cho tên lính đuổi vòng vèo từ đống nọ sang đống kia, đến khi hắn mệt lử mới bất ngờ xông ra, gí súng bắt hắn phải nộp súng đầu hàng. Lúc đó, người cán bộ đi cùng cũng kịp đến hỗ trợ khống chế tên giặc.

Hành động dũng cảm của Lê Văn Thục đã được tuyên dương trước toàn đơn vị và báo cáo lên cấp trên đề nghị khen thưởng. Vài tháng sau, thủ trưởng cơ quan thông báo cho chú hai tin mừng cùng một lúc. Một là được vào biên chế chính thức của Bộ Quốc phòng, chuyển sang làm chiến sĩ liên lạc cho anh Văn (đồng chí Võ Nguyên Giáp) tại Văn phòng Bộ Tổng tư lệnh. Chú đã òa khóc nức nở khi nghe tin thứ hai, đó là Bác Hồ đã nghe báo cáo về hành động gan dạ, mưu trí của chú và Người đã gửi thơ khen tặng. Bài thơ “Gửi cháu Lê Văn Thục” của Bác Hồ có nội dung như sau: “Cháu có can đảm/ Giơ súng dọa Tây/ Bắt nó hàng ngay/Lấy được súng nó/Vì thành công đó/Bác gửi lời khen/Mong cháu tập rèn/Ngày càng tiến bộ/Bác lại gửi cháu/Mấy chục cái hôn”.

Sang Văn phòng Bộ Tổng tư lệnh, chú liên lạc nhỏ được Đại tướng Võ Nguyên Giáp ân cần dặn: “Cháu phải luôn luôn tu dưỡng đạo đức, cả khi ở cơ quan, cả những khi chỉ có một mình. Bộ đội của dân là phải sẵn sàng hy sinh thân mình vì dân, vì nước. Phải đạo đức trong sáng để dân tin, dân yêu, dân giúp sức thì mới đánh thắng giặc”.

Các anh chị cán bộ đã quen thuộc với bóng dáng chú liên lạc bé xíu rạp mình trên lưng con ngựa Cao Đen. Con Cao Đen đã theo chú từ Trại tăng gia, rong ruổi khắp các nẻo đường chiến khu, mang những thư từ tối mật, hỏa tốc đến nơi ở và làm việc của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ như: Lán Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Khau Tý, Khuôn Tát; lán Tổng bí thư Trường Chinh ở Phụng Hiển; cơ quan Tổng bộ Việt Minh của đồng chí Hoàng Quốc Việt ở xóm Roòng Khoa… Ngoài những lúc đi làm nhiệm vụ, chú lại cắt cỏ, chăm sóc ngựa của mình cùng con Hồng Cao của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Có lần, Đại tướng Võ Nguyên Giáp bảo chú đến chân Núi Hồng đón khách từ Tuyên Quang sang. Đại tướng dặn dò chú bé rất cẩn thận về nguyên tắc bảo mật. Vì thế, khi đón được ông cụ già cùng với hai đồng chí cán bộ, chú lại phi ngựa đi trước dẫn đường. Đến một đoạn đường lầy lội, chú xuống ngựa, chạy lại định dắt ngựa cho cụ già thì cụ hiền từ bảo: “Cháu cứ đi đi, Bác tự đi được”. Mấy ngày sau, chú mới biết cụ già đó chính là Ông Ké - Chủ tịch Hồ Chí Minh vô vàn kính yêu. Mặc dù còn được đưa đón Bác đi công tác nhiều lần, trong lòng rất muốn được trò chuyện với Bác, nhưng vì đã được cấp trên dặn dò, chú luôn im lặng làm nhiệm vụ của mình. Đến một ngày, khi Bác cháu đến chỗ đồng chí Trần Đăng Ninh, Bác bảo chị Hồng (vợ đồng chí Trần Đăng Ninh) làm thức ăn ngon cho chú liên lạc. Đến bữa, Bác vào xem chú có đủ thức ăn không, vì quá bất ngờ, chú ngượng nghịu mời Bác: “Cháu mời Bác ăn cơm ạ”. Bác cười bảo: “Mời Bác ăn hết thì cháu lấy gì mà ăn”, rồi Bác mang đĩa thịt mà chị Hồng chuẩn bị riêng để Bác tiếp thêm cho chú liên lạc. Cử chỉ ân cần ấy của Bác Hồ đã theo ông Thục suốt cả cuộc đời và như một động lực tinh thần tiếp sức để ông vượt mọi khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giao cho.

Hòa bình lập lại, ông Thục cùng cơ quan về tiếp quản Thủ đô. Khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp hỏi về nguyện vọng, ông xin tiếp tục được phục vụ trong quân ngũ. Ông được cử đi học trường lục quân, sau đó biên chế về Cục Bảo vệ bờ biển của Hải quân. Từ năm 1964 cho đến khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ông đã cùng đồng đội kéo pháo truy kích máy bay Mỹ suốt dọc bờ biển miền Trung và trực tiếp tham gia chỉ huy nhiều chuyến tàu không số chi viện cho chiến trường miền Nam.

Năm 1984, khi đang là Thiếu tá, Cảng trưởng Tân Cảng Sài Gòn, ông Thục xin nghỉ hưu sau gần 40 năm phục vụ trong quân ngũ với suy nghĩ rất giản dị là nên nhường lại vị trí cho các đồng chí trẻ tuổi, nhiều học thức hơn.

Ông Lê Tiến Quý, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh phường Túc Duyên dành nhiều tình cảm khi nói về người đồng đội của mình: “Từ khi rời quân ngũ về địa phương, ông Thục luôn nhiệt tình, trách nhiệm trong việc tham gia các hoạt động của phường, của tổ dân phố, được anh em hội viên tín nhiệm bầu vào Ban chấp hành nhiều khóa. Ông cũng là một trong số ít đảng viên có tuổi Đảng cao, được Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý như: Huân chương Quân công, huân chương Kháng chiến, huân chương Chiến sĩ vẻ vang…

Một đời cống hiến cho cách mạng, trở về đời thường tưởng được an nhàn, thảnh thơi, nhưng ông lại là người không may mắn. Vì tai nạn và bệnh tật đã cùng lúc cướp đi của ông người con trai và người con rể. Ghìm nỗi đau riêng vào lòng, ông vẫn vững vàng nuôi dạy các cháu nên người. Trước khi chia tay, ông tâm sự với tôi: “Dù việc riêng tư không được như ý muốn, nhưng tôi mãi khắc ghi và thực hiện đúng lời Bác dạy: “Mong cháu tập rèn/ Ngày càng tiến bộ”. Đó cũng là cách để tìm niềm vui tuổi già cho mình, cháu ạ”!

Bài và ảnh: Dương Thị Bạch Liễu