QĐND Online -Từ tờ mờ sáng, chúng tôi rời thành phố Hà Giang lên cao nguyên đá Đồng Văn, trên những cung đường sương mù giăng lối. Những thôn bản nằm chênh vênh trên núi đá còn say giấc. Ánh đèn pha của chiếc xe U-oát  chở chúng tôi vượt cổng trời Quản Bạ chỉ rọi sáng được khoảng cách chừng 15 mét, thi thoảng xe lại phải gìm lại vì phanh gấp, chao nghiêng tại những khúc cua tay áo. Người tôi cứ bị đẩy nghiêng lúc bên phải, lúc bên trái tùy theo con dốc. Một cán bộ ban tuyên huấn Bộ CHQS tỉnh Hà Giang đi cùng nói với tôi: “Lên cổng trời Quản Bạ, đi sâu vào Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc, nhiều người bị say bởi những đoạn đường dốc khúc khuỷu, ngoằn ngoèo lắm đấy”. Nghe vậy, nhưng với tôi, phía sau cổng trời Quản Bạ, vùng cao nguyên đá được công nhận là Công viên địa chất toàn cầu của thế giới phía cực Bắc của Tổ quốc chỉ là trí tưởng tưởng, là sự hình dung cắt khúc qua phim, ảnh.

Chiếc xe lầm lũi rẽ sương mù vượt dốc quốc lộ 4C lên cổng trời Quản Bạ. Trung úy QNCN Nguyễn Văn Khanh, lái xe kể, lái xe ở những cung đường này đòi hỏi phải nhanh tay, quen mắt, quen đường và tâm lý vững vàng. Nhiều lái xe ở dưới xuôi lên, nhìn dốc núi đá chênh vênh luôn phải dè chừng, căng thẳng trước những khúc cua tưởng như chỉ sểnh một chút là có thể lao xuống vực thẳm sâu hút.

Kể về kinh nghiệm lái xe trên những cung đường cao nguyên đá, giọng  anh Khanh rành rẽ: -Lái xe ban đêm an toàn hơn ban ngày. Ban đêm, khi qua những đoạn đường khúc cua tay áo, khúc khuỷu, ngồi ở ca bin xe có thể thấy được những ánh sáng đèn của những xe đi ngược chiều rọi lại. Còn ban ngày, tuy sáng rõ nhưng chủ yếu chỉ dựa vào phán đoán, xử lý của người lái xe. Nếu không có kinh nghiệm, giữ bình tĩnh, xử lý khéo thì hai chiếc xe ngược chiều dễ dàng va chạm, lao xuống vực sâu hút.

Xe vượt qua cổng trời Quản Bạ, bình minh đã tỏa khắp vùng cao nguyên ngút ngàn, hiện ra những thôn bản lúc thì nép mình dưới chân núi, lúc thì trên lưng chừng đỉnh mây mù. Những căn nhà hiện trên núi đá xám xịt. Thi thoảng lại xuất hiện những cây hoa gạo khẳng khiu mang trên mình những bông hoa đỏ thắm in trên nền trời lúc bình minh, tạo nên một khung cảnh đẹp đến ngỡ ngàng.

Đá chồng lên đá, núi chồng lên núi, cứ thế đưa nhau đến mây trời. Trên quãng đường muôn nẻo cao nguyên đá, trong tầm mắt chúng tôi thấy đồng bào Mông lên nương. Những cô gái Mông trong trang phục truyền thống với màu sắc sặc sỡ lúc thì mang gùi rải bước trên con dốc, lúc cặm cụi chăm chú vun từng vốc đất để gieo ngô trong hốc đá ở lưng chừng núi. Những hình ảnh ấy gợi lên một sức sống mãnh liệt đầy cảm phục trên những nẻo núi đá.

Điểm tựa cho đồng bào trong hoạn nạn

Khi mặt trời đứng nắng, xe chở chúng tôi đến trung tâm của xã Sủng Trà, huyện Mèo Vạc. Sủng Trà là một xã nghèo, 89% dân số là dân tộc Mông. Đón chúng tôi trước cổng trụ sở xã, đồng chí Đoàn Duy Thành, Bí thư Đảng ủy xã nói ngay:

- Các anh đến đúng lúc quá. Lúc này, cán bộ Ban CHQS huyện Mèo Vạc và Tiểu đội dân quân của xã Sủng Trà đang triển khai giúp dân khắc phục hậu quả cơn lốc xảy ra mới hôm qua. Tôi đang chuẩn bị đến đó, các anh luôn tiện cùng đi nhé!.

Ban CHQS huyện Mèo Vạc và dân quân xã Sủng Trà giúp dân khắc phục thiên tai

Căn nhà mà đồng chí Bí thư Đảng ủy xã nói đến cách trụ sở xã Sủng Trà chưa đầy 1km là của gia đình anh Vàng Mĩ Tủa. Căn nhà được xây dựng, khánh thành  từ nguồn kinh phí hỗ trợ của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện Mèo Vạc. Vợ vừa mới sinh con chưa đầy tháng, gia đình anh Vàng Mĩ Tủa nhận căn nhà mới với niềm vui khôn xiết. Ở chưa được nửa tháng, chưa kịp quen căn nhà mới thì đêm 5-4 vừa qua, một trận gió lốc đã bất ngờ thổi qua cuốn phăng mái nhà. Gia đình Vàng Mĩ Tủa phải qua nhà cha mẹ ở tạm. Nhận được tin báo, Ban CHQS huyện Mèo Vạc đã huy động cán bộ cùng với Tiểu đội dân quân thuộc Ban CHQS xã Sủng Trà tổ chức sửa chữa, lợp lại nhà cho gia đình Vàng Mĩ Tủa. Đồng chí Nông Văn Phương, Chủ tịch UBND xã Sủng Trà cho biết: 

- Đồng bào Mông nơi đây sợ nhất là khô khát và giông lốc, mưa đá. Thi thoảng, những trận mưa đá quét qua giữa đêm, hất phăng những mái nhà. Vợ chồng, con cái hoảng hốt bừng dậy, lánh nạn giữa đêm.

Trò chuyện với Thượng tá Cao Xuân Đạm, Chỉ huy trưởng Ban CHQS huyện Mèo Vạc, tôi lại được biết hai đợt gió lốc và mưa đá từ đầu tháng 4 đến nay đã gây hậu quả làm tốc mái, hư hại 51 căn nhà ở 8 xã thuộc huyện Mèo Vạc. Ban CHQS huyện đã huy động hàng trăm lượt cán bộ, chiến sĩ thường trực và dân quân kịp thời giúp dân sửa chữa nhà cửa, ổn định cuộc sống.

Kỳ tích một cung đường

Từ Mèo Vạc, xe chở chúng tôi theo con đường mang tên Hạnh phúc vắt ngang lưng chừng núi đá để tới Đồng Văn. Con đường hiện ra trước mắt chúng tôi với những dốc đá tai bèo dựng ngược, những vực sâu hun hút bên những triền núi đá, những đỉnh núi lô nhô đuổi nhau đến phía chân trời. Thấy tôi chăm chú cầm máy ảnh nhoài người đưa tay ra cửa kính xe cố ghi những tấm hình chụp phong cảnh lướt qua tầm mắt. Trung úy QNCN Ngô Quốc Hoàn, Chủ nhiệm Nhà văn hóa Bộ CHQS tỉnh Hà Giang đi cùng nói với tôi:

Đường lên cao nguyên đá Đồng Văn

- Chỉ một lát nữa thôi lên đến đỉnh Mã Pì Lèng, anh thỏa sức chụp ảnh. Con đường này là một kỳ tích đầy tự hào của đồng bào các dân tộc ở vùng cao nguyên đá này. Ngày trước, nơi vùng núi đá hoang sơ chỉ có những lối mòn dành cho ngựa thồ và người đi bộ. Năm 1959, Trung ương Đảng và Khu ủy Việt Bắc đã ra quyết tâm  xây dựng một con đường độc đạo nối từ trung tâm tỉnh Hà Giang về đến các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc. Trong 6 năm xây dựng, con đường dài hơn 200km vượt qua điệp trùng núi đá mới được hoàn thành từ sự góp sức gần 3 triệu ngày công của hàng vạn thanh niên xung phong, dân công thuộc 16 đồng bào dân tộc ở các tỉnh phân khu Việt Bắc. Riêng đoạn qua đỉnh Mã Pì Lèng này, hàng nghìn thanh niên các đồng bào dân tộc đã treo mình trên dây suốt 11 tháng trời, cùng với những dụng cụ thủ công sử dụng bằng tay để phá đá, phá núi mở đường. Đây được xem là công cuộc phá đá mở đường vĩ đại trong lịch sử của dân tộc.

Câu chuyện của Hoàn cuốn hút chúng tôi cho đến khi xe đỗ lại trên đỉnh Mã Pì Lèng lúc nào không hay.  Đứng trên đỉnh, nhìn xuống vực thẳm sâu hun hút đến rợn ngợp và con đường vắt ngang lưng chừng từ ngọn núi này sang ngọn núi khác, vươn tới đỉnh mới cảm nhận được ý chí và sức mạnh của các thế hệ cha anh đi trước. Tại đây, ngành chức năng tỉnh Hà Giang đã xây dựng một khuôn viên nhỏ để làm điểm dừng chân và dựng một tấm bia ghi nhớ dấu ấn và kỳ tích làm nên con đường Hạnh phúc. Tấm bia được làm bằng đá hoa cương, khắc sâu dòng chữ: “Nhằm giúp vùng núi tiến kịp vùng xuôi, Trung ương Ðảng, Khu ủy Việt Bắc quyết định mở đường Hà Giang - Ðồng Văn - Mèo Vạc. Ngày khởi công: 10-9-1959. Ngày hoàn thành: 10-3-1965. Thành phần mở đường gồm 16 dân tộc ở các tỉnh Cao Bắc Lạng - Hà Tuyên Thái – Hải Hưng- Nam Ðịnh”.

Đồng bào Mông trồng ngô trên vùng núi đá

Đứng từ điểm dừng chân trên đỉnh Mã Pì Lèng, phóng tầm mắt nhìn điệp trùng núi đá, với những đỉnh núi lô nhô vươn tới trời và cung đường vắt ngang lưng chừng núi tạo cho chúng tôi cảm giác lâng lâng, xen lẫn niềm tự hào. Phóng mắt xuống vực sâu thẳm, dòng sông Nho Quế ăm ắp nước như dải lụa vươn ra từ lòng núi. Ở miền Nam ngót gần 20 năm, đi khắp nẻo Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam bộ, được cảm nhận sự mênh mang, phì nhiêu, màu mỡ của cây trái, ruộng đồng nơi miền sông nước phù sa bao nhiêu thì tôi như choáng ngợp trước cảnh sắc hùng vĩ, uy nghi dáng hình Tổ quốc nơi cực Bắc, cảm nhận được ý chí, sức sống của con người trên những triền đá xám xịt, đầy sự khắc nghiệt của thiên nhiên.

 Giọng của Hoàn cắt ngang dòng suy tưởng của tôi:

 -Năm 2013, Bộ CHQS tỉnh Hà Giang đã giao nhiệm vụ cho chúng tôi thực hiện một bộ phim tài liệu về con đường Hạnh phúc đầy kỳ tích này. Những năm tháng đã lùi xa, để có tư liệu, chúng tôi đã phải gõ cửa nhiều cơ quan ở tỉnh Hà Giang như: Sở Giao thông Vận tải, lực lượng Thanh niên xung phong, Bảo tàng tỉnh Hà Giang và tìm gặp nhiều nhân chứng... Càng đi sâu tìm hiểu, nắm thêm được những gian khổ, hy sinh bằng máu, mồ hôi và sức lực, ý chí của những con người đã làm nên tuyến đường này, những thành viên tham gia làm phim nhiều lần lặng đi vì xúc động, cảm phục. Chúng tôi nêu quyết tâm thực hiện bộ phim với nỗ lực cao nhất. Bộ phim có tựa đề “Khúc tráng ca trên đỉnh Mã Pì Lèng” đã hoàn thành đúng kế hoạch, đã giành được Giải Bạc ở thể loại phim tài liệu tại Liên hoan Phim Truyền hình toàn quân năm 2013.

Ghi chép của ĐẶNG TRUNG KIÊN