QĐND - Gia Lai là một trong những địa phương được Nhà nước ưu tiên nguồn vốn khá lớn để đầu tư xây dựng các công trình nước sạch cho vùng nông thôn, miền núi. Thế nhưng, qua kiểm tra đã có 783/1.742 công trình hoạt động kém hiệu quả, đang xuống cấp và không hoạt động, gây lãng phí tiền của Nhà nước, hàng nghìn hộ dân thiếu nước sinh hoạt.
 |
|
Công trình cung cấp nước sinh hoạt ở Chư Ngọc ngừng hoạt động đang bị bỏ hoang.
|
Xây dựng nhiều, hiệu quả ít
Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh Gia Lai, Sở Xây dựng chủ trì phối hợp với các Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ban Dân tộc (HĐND tỉnh) tổ chức kiểm tra hơn 40% tổng số công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn (CNSHNT) do 17 huyện, thị xã, thành phố và các công trình do Trung tâm Nước sinh hoạt và Vệ sinh môi trường làm chủ đầu tư. Trên địa bàn hiện có 1.742 công trình nước sạch bao gồm: Công trình cấp nước bơm dẫn (giếng khoan), công trình cấp nước tự chảy, giếng đào và giọt nước. Trong số đó có 137 công trình CNSHNT do Trung tâm Nước sinh hoạt và Vệ sinh môi trường nông thôn (NSH&VSMTNT) tỉnh Gia Lai làm chủ đầu tư với kinh phí hơn 115,9 tỷ đồng. Qua kiểm tra phát hiện có 73 công trình hoạt động kém hiệu quả, đang xuống cấp và không hoạt động. Số còn lại (1.605 công trình) là do các huyện, thị xã, thành phố làm chủ đầu tư với tổng kinh phí hơn 130,9 tỷ đồng. Trong số này có 710 công trình hoạt động kém hiệu quả và không hoạt động, khiến người dân thiếu nước sinh hoạt trầm trọng.
Chỉ riêng ở huyện Krông Pa, địa phương xa nhất của tỉnh Gia Lai có đến 60 hệ thống cấp nước sinh hoạt bằng giếng khoan, 149 giếng đào. Tổng số vốn đầu tư các công trình cấp nước sinh hoạt trên địa bàn huyện là hơn 150 tỷ đồng. Tại xã Chư Ngọc có 4 công trình, tổng số vốn đầu tư gần 7 tỷ đồng, nhưng chỉ có 25 hộ dân được sử dụng nước từ các công trình này; xã Chư Gu có 8 công trình thì chỉ có 2 công trình hoạt động, còn lại là không hoạt động. Các xã khác như Ia Rmok, Ia Hdreh cũng rơi vào tình cảnh tương tự.
Trong khi hàng loạt các công trình nước sạch hoạt động kém hiệu quả hoặc đã “đắp chiếu” khiến người dân thiếu nước sạch trầm trọng thì ông Bùi Văn Tam, Giám đốc Trung tâm NSH&VSMTNT Gia Lai lại đổ lỗi do trung tâm thiếu người, do các địa phương buông lỏng quản lý khiến công trình hư hỏng… Trước ý kiến phản ánh của người dân, UBND tỉnh Gia Lai đã giao cho Sở NN&PTNT kiểm điểm trách nhiệm của Giám đốc Trung tâm NSH&VSMTNT Gia Lai vì lựa chọn địa điểm đầu tư và phương án thiết kế xây dựng chưa phù hợp, chưa đồng bộ, thiếu đánh giá chất lượng nguồn nước dẫn đến công trình hoạt động kém hiệu quả; UBND tỉnh cũng kiểm điểm trách nhiệm của chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố và các xã để xảy ra các công trình cấp nước hoạt động kém hiệu quả và không hoạt động; phê bình Sở NN&PTNT vì đã thiếu trách nhiệm trong kiểm tra, nhắc nhở các đơn vị trên trong việc đầu tư xây dựng và tổ chức quản lý khai thác công trình…
 |
|
Công trình cung cấp nước sinh hoạt ở Chư Ngọc ngừng hoạt động đang bị bỏ hoang.
|
Người dân thiếu nước sạch
Bên cạnh những công trình CNSHNT hoạt động kém hiệu quả và đang xuống cấp thì còn có khá nhiều công trình xây xong “đắp chiếu”, chưa hoạt động ngày nào. Số công trình thuộc dạng này không hề nhỏ, chiếm 210/1.742 công trình. Đáng chú ý là trong số 154 công trình bơm dẫn (giếng khoan) do các huyện, thị xã, thành phố đầu tư thì có đến 54 công trình không hoạt động, chiếm tỷ lệ 35%. Đơn cử như Công trình cấp nước sinh hoạt tại làng Bi, xã Ia Yeng (Phú Thiện), đầu tư năm 2011 và đã qua nghiệm thu, nhưng không đưa vào khai thác và sử dụng được do không có đường điện. Các công trình cấp nước sinh hoạt tại các làng Dmak, Mun, Lốc thuộc xã Ia Ke (Phú Thiện), đầu tư năm 2011 nhưng cũng chưa đưa vào khai thác vì nguồn nước bị nhiễm phèn. Một công trình khác là giếng khoan tại trung tâm xã Đăk Sơ Mei (Đăk Đoa) đầu tư năm 2002 nhưng không đưa vào khai thác sử dụng được vì không có đường điện...
Vượt qua đèo Tô Na, chúng tôi về đến Chư Ngọc, huyện KrôngPa (Gia Lai). Trao đổi với chúng tôi về vấn đề nước sạch, anh Đinh Lập cho biết: “Năm 2006, tôi cùng bà con chuyển về làng mới ở buôn Sai, xã Chư Ngọc. Nghe Nhà nước đã đầu tư hơn 2,7 tỷ đồng từ Chương trình 134 và 135 để xây dựng hệ thống cấp nước sinh hoạt phục vụ gần 200 hộ dân trong buôn, chúng tôi rất mừng. Song, chỉ được mấy ngày bà con mình không thể dùng được vì nguồn nước lấy từ công trình về có màu vàng và có mùi hôi không thể ăn uống được. Hệ thống này đã dừng hoạt động và bị bỏ hoang từ đó đến nay. Hiện tại, các đầu van của máy bơm, khóa van dẫn nước lên bồn đều đã hư hỏng gỉ sét, hệ thống điện đã hư hỏng hoàn toàn. Hằng ngày bà con mình phải xuống sông Ba để lấy nước sinh hoạt. Mùa mưa còn có nước, chứ mùa khô thì khó lắm, phải đào cát sâu mới có nước để lấy, nhưng nước vẫn đục ngầu..." . Còn chị Nay H’Gút-một người dân ở buôn Sai, cho biết thêm: “Nhà nước làm cho cái giếng khoan, nước lấy lên đỏ ngầu, hôi không dùng được. Bây giờ chúng tôi đề nghị cán bộ đến kiểm tra tận nơi, xem chỗ nào có nguồn nước sạch khoan giếng tốt hơn để bà con có nước sinh hoạt…”.
Để người dân được sử dụng nước từ các công trình và tránh để tình trạng lãng phí, thất thoát do các công trình không hoạt động, rất cần có sự vào cuộc của chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng. Cần phát hiện và xử lý nghiêm khắc những cá nhân cố ý làm sai gây thất thoát ngân sách của Nhà nước. Làm tốt công tác vận động người dân phát huy tinh thần trách nhiệm “giữ tốt, dùng bền”. Có như vậy, sự đầu tư của Nhà nước mới đem lại hiệu quả thiết thực đối với người dân.
Bài và ảnh: LÊ QUANG HỒI