Tôi sinh ra ở nông thôn, trong cái làng Hành Cung bé nhỏ thuần nông nằm nép mình bên nhánh con sông Sào Khê, thuộc vùng núi đá vôi Hoa Lư, Ninh Bình. Trong lý lịch gia đình tôi ghi thành phần gia đình: “Bần nông”; Nghề nghiệp: “Làm ruộng”; Trình độ văn hóa: “Mù chữ”… Thuở nhỏ, có lúc tôi đã rất tự ti, thắc mắc rằng tại sao bố mẹ tôi lại là nông dân chứ không phải là “công chức” như nhiều chúng bạn… Chuyện quê, chuyện đời, có những điều giản dị, thân thuộc như bóng đa quê mà mãi sau này tôi mới hiểu…

Có lẽ, nhiều người đã biết vị trí của xã Trường Yên, Hoa Lư ngày nay là nơi định đô của ba triều đại Đinh, Tiền Lê và nhà Lý thời kỳ đầu. Nhưng chắc ít người biết rằng, xã Ninh Thắng nơi tôi sinh-thuở xa xưa có tên gọi là tổng Vũ Lâm-từng là hành cung thứ hai của nhà Trần. Ngày nhỏ, sau những giờ chăn trâu, thả diều, tôi thường lân la nghe các cụ trong làng đàm đạo chuyện thế nhân. Qua sự cóp nhặt tò mò, tôi hiểu hơn mảnh đất mình sinh ra. Cùng với hành cung ở Thiên Trường (Nam Định), khu vực hành cung Vũ Lâm được biết đến như một hậu cứ để nhà Trần chống giặc ngoại xâm.

Chuyện rằng: Vào năm Ất Dậu 1285, quân Nguyên-Mông sang xâm lược nước ta lần thứ hai. Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông rút khỏi kinh thành Thăng Long, xây dựng căn cứ địa ở Thiên Trường và Trường Yên. Khu vực Vũ Lâm từng là nơi hai vua cùng quần thần bàn kế sách đánh giặc. Sau khi thắng giặc Nguyên-Mông lần thứ ba, theo gương tiên đế, vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, rồi cùng với thiền sư Pháp Loa xuất gia tu hành tại Hành Cung, chính thức cho lập tổng Vũ Lâm từ ngày ấy. Mãi đến năm 1299 ông mới dời lên núi Yên Tử (Quảng Ninh), trở thành thủy tổ của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử và về với cõi phật ở đó.

Cây đa trước cửa Đình Sen (làng Hành Cung) thờ vua Trần Nhân Tông. Ảnh: Hùng Hương

Hành Cung quê tôi mang đặc trưng hồn cốt một làng quê thuần Việt với cây đa, bến nước, sân đình. Tôi tự hào vì những tên đất, tên làng của tổng Vũ Lâm xưa vẫn mang dấu ấn từ thời nhà Trần. Khu vực vua từng ở, nay được mang tên là làng Hành Cung. Bến thuyền hạ chèo, nay là làng Hạ Trạo (tức dừng thuyền). Nơi đặt kho lương nay gọi lái thành làng Khả Lương. Còn khu vực “làm thủ tục hành chính” (báo cáo trước khi gặp vua), nay thuộc làng Tuân Cáo đều thuộc xã Ninh Thắng. Vua Trần Nhân Tông chính là người có công khai khẩn, mở mang và xây dựng Hành Cung-Vũ Lâm thuở ban đầu. Hơn bảy trăm năm đã qua đi, bụi thời gian xoá nhòa dấu ấn, cảnh vật, nhưng người dân quê tôi vẫn tự hào nhắc nhau, hãy gìn giữ sự thanh cao, thiêng liêng mảnh đất mà Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã khai phá, gây dựng.

Qua bao biến thiên của lịch sử, nơi vua ở nay không còn dấu tích. Để tưởng nhớ vị vua anh minh, sau khi ông mất, dân làng tôi đã xây dựng một ngôi đình ngay trên khu đất hành cung cũ để thờ. Đình này được gọi là Đình Sen, vì phía trước có một hồ sen rất lớn. Chếch sang bên phải cửa Đình, một cây đa già nua trầm mặc tọa lạc từ bao giờ. Cây đa to lắm, phải 5-6 người ôm mới xuể. Gốc đa xù xì màu nâu bạc. Rễ đa tua tủa, óng mịn. Cành đa vươn dài, xum xuê lá xanh. Cây đa-một biểu tượng của sức sống bền bỉ, cần mẫn, âm thầm như khí chất nông dân...

Cây đa làng đã bao mùa thay lá, vẫn lặng lẽ chứng kiến những biến đổi thăng trầm của đất, của người. Nhớ năm xưa, bao người dân quê tôi lam lũ quanh năm, ăn không đủ no nhưng vẫn nhường cơm, sẻ áo cho người đi đánh giặc. Vượt trên những bon chen, toan tính đời thường, người Hành Cung vẫn tựa lưng vào đất, no đói, sướng khổ cùng nhau. Tình làng, nghĩa xóm, sự đồng cam cố kết đã nuôi nấng bao thế hệ lớn khôn, trưởng thành. Cũng từ gốc đa này, chúng tôi lớn lên, ra đi, mang theo hơi ấm của tình đất, tình nhà. Chúng tôi lớn lên bằng hạt lúa, củ khoai, bằng lời ru tha thiết của mẹ, của bà. Một làn gió đồng quê. Một miếng dưa mát lạnh giữa trưa hè. Một điệu dân ca mượt mà êm ái… Tất cả đã nhào quyện, thấm đẫm tâm hồn tuổi thơ tôi. Cây đa quê hương, bám rễ vào đất, chắt chiu nhựa sống, kiên cường hứng chịu gió Lào, giông bão, dành dụm từng chiếc lá cho mỗi độ hè sang.

Mùa lại mùa, cây đa vẫn chở che cho bao người dân trong những ngày hè nắng lửa. Dưới bóng đa râm mát, những đứa trẻ hiếu động như tôi mải mê chơi khăng, nghịch đất, đánh bi… Đến khi lớn lên bỗng hiểu rằng, đó chính là những điều giản dị, thanh cao mà đất trời quê hương ban tặng. Dưới gốc đa, từng diễn ra không khí sôi động của người dân trong những ngày Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Già trẻ, gái trai, sát cánh cùng nhau đánh giặc giữ làng. Cả nước vùng lên! Quê tôi cũng vùng lên! Đánh Pháp. Đuổi Nhật. Diệt ác. Trừ gian. Quyết tâm xây nền tự do, độc lập. Khí thế sục sôi của cách mạng thổi bùng ngọn lửa đấu tranh, thôi thúc mọi người nhất tề nổi dậy, tham gia giải phóng đất nước, giải phóng quê hương mình. Truyền thống đất Hành Cung chính là chất xúc tác, giúp mỗi người dân những năm tháng chiến tranh vượt qua gian nguy, thách thức, đóng góp công sức của mình vào thắng lợi chung.

Hình ảnh cây đa làng quen thuộc, thân thương đã bén sâu vào tiềm thức mọi người con khi đi xa. Dưới gốc đa, những chàng trai làng từ biệt quê nghèo, từ biệt người thân lên đường ra mặt trận. Những cô thôn nữ trở thành dân quân, du kích, việc nhà, việc nước đảm đang. Chiến trường những năm đánh Mỹ, từng lá cây, ngọn cỏ cũng oằn mình đớn đau vì bom đạn. Hẳn rằng, với những chàng trai áo lính quê tôi, trong phút giải lao sau chặng hành quân, những giây hồi hộp trước giờ nổ súng, hay chập chờn nghe pháo bắn cầm canh... hình ảnh cây đa vẫn thoảng lát hiện về. Nơi đó, làng quê, với những ao Chùa-xóm Đò-cống Bến, những Đồng Nê-Đồng Mạ-Cửa Đình đã từng in dấu chân các anh trong mỗi vụ chiêm, mùa... Gốc đa cũng là nơi hò hẹn của những chàng trai làng, tạm biệt người yêu trước giờ ra mặt trận. Và rồi, nhiều người đã mãi mãi không bao giờ trở lại…

Một người con từ gốc đa làng đi chiến đấu mà khi nhắc đến mọi người đều thể hiện sự tôn kính, trân trọng. Đó là ông Bùi Cử-người thực sự là “cây cao bóng cả” của làng tôi về sự đức độ và lòng nhân ái. Tham gia cách mạng từ những năm 50 của thế kỷ trước, cuộc đời ông kinh qua bao gian lao, thăng trầm, nhiều khi cái chết và sự sống chỉ trong gang tấc. Vốn là một thanh niên nghèo, mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải đi ở đợ chăn trâu, cắt cỏ kiếm sống, ông từng bước phấn đấu rồi trở thành một bác sĩ. Hơn nửa đời người sống và chiến đấu trong quân đội, phần lớn thời gian ông phải lăn lộn ở những chiến trường ác liệt. Từ mặt trận Bắc Hà, Vĩnh Linh đến Đường 9-Nam Lào, từ chiến dịch K74 giải phóng đông nam Khe Tre đến tham gia tiễu phỉ tại Thượng Lào, ông đều có mặt. Gian khổ, khó khăn, thiếu thốn không làm ông sờn lòng, nản chí. Thế nhưng, đôi khi người lính già ấy đã phải cắn răng, dằn lòng, kìm nén sự xúc động trước những mất mát, đau thương của đồng đội, trong đó có những người lính trẻ chỉ trạc tuổi con ông...

Đầu năm 1988, chia tay đồng đội, trở về gốc đa quê, ông vẫn không quên mình là một bác sĩ. Tính đến nay, sau hơn hai chục năm rời quân ngũ cũng là bấy nhiêu năm ông tự nguyện khám, chữa bệnh cho dân làng mà không nhận một đồng tiền thù lao. Không một phút ngại ngần. Không quản nắng mưa, sớm tối. Bước chân ông cứ lại qua đầu thôn, cuối xóm, thăm nom khám, chữa cho người bệnh, và chính ông đôi khi vẫn tự chữa cho mình. Trong cuộc đời, chỉ đến khi về già, ngồi nghĩ lại thời đã qua, người ta hay nuối tiếc vì chưa làm được nhiều điều có ý nghĩa. Đối với Trung tá, bác sĩ Bùi Cử, ông đã sống và làm việc xứng đáng với ý nghĩa cao đẹp của hai chữ Con Người. Bởi vì, trong ông có sự uyên thâm, trí tuệ của một trí thức, có tính giản dị, khiêm nhường của một người lính, và có nét sâu sắc, lãng mạn của một tâm hồn thi sĩ. Đó chính là những chắt lọc tinh túy của đất, của trời, của mảnh đất Hành Cung vẫn ngàn đời ân tình, nặng nghĩa.

Những lớp người từng trải qua bao năm tháng chiến tranh, gian khổ như cựu chiến binh Lê Văn Kếnh, Bùi Cử, Trịnh Xuân Ứng, Bùi Văn Thể, Lê Văn Kiểu, Dương Văn Xuyền, Bùi Văn Toóng… quê tôi hôm nay có niềm vui đổi mới. Các gia đình đã có của ăn của để, những ngôi nhà xinh xắn, hiện đại cứ nối tiếp mọc lên. Làng xóm Hành Cung đang thay da đổi thịt. Không còn cảnh ngập lụt, nhếch nhác khi xưa. Những con đường len lỏi qua xóm thôn ngày càng khang trang, sạch đẹp. Và hơn cả là những gương mặt rạng ngời khi đón những mùa vàng no đủ.

Dưới gốc đa Đình Sen, tôi từng được chứng kiến cảnh làng quê mở hội. Nụ cười hân hoan, mặt người rạng rỡ. Tiếng hát, tiếng đàn, dập dìu màu sắc. Đã qua rồi cảnh chia ly năm xưa, bao thôn nữ quê tôi đưa tiễn người yêu bằng giọt buồn giấu vội. Một thời chiến tranh, một thời vất vả đã qua. Quanh gốc đa hôm nay hiển hiện sự ấm áp, xốn xang của một miền quê đổi mới. Những giờ phút hàn huyên, bàn góp sự đời dưới gốc đa Đình. Tình làng nghĩa xóm, sớm lửa tối đèn bên nhau. Phút thư thái nông nhàn với bát nước chè xanh sóng sánh… Tất cả là thứ giá trị thanh tao của văn hóa làng quê. Tôi-một người con xa quê-chứng kiến cảnh thanh bình, yên ả nơi cây đa, bến nước, sân đình bỗng chạnh lòng khi nghĩ đến những phận người đang mù mịt, tha hương. Liệu có ai tìm được đường về quê cũ hay đành gửi nắm xương tàn trong cõi đời phiêu lãng, phù du...

Xuân qua. Hạ đến. Thu về. Đông tới. Cây đa quê tôi đã bao lần thay lá, bóng râm trưa hè che mát bao thế hệ, nuôi nấng những tâm hồn thơ trẻ biết sống, biết yêu và nghĩ đến quê hương. Lớn khôn lên, toả ra muôn phương, có ai nỡ vội quên đi hình bóng gốc đa làng, quên đi những tháng năm tuổi thơ từng thả hồn mình dưới bóng mát gốc đa quê...

Hành Cung, Ninh Thắng, nơi có Đình Sen thờ vua Trần Nhân Tông, đã là một làng văn hóa mới. Rộng hơn, xa hơn, vùng đất Hoa Lư-Ninh Bình cũng đang từng bước phát triển đi lên bằng tiềm năng du lịch. Hoa Lư quê tôi hiển hiện những kỳ quan nổi tiếng mà thiên nhiên và con người đã tạo ra. Một khoảng không gian núi Thúy-sông Vân mênh mang sóng nước. Một vùng Bích Động-Ba Hang sơn thủy hữu tình. Một chốn Tràng An bồng bềnh mây nước... Tất cả như giao hoà, bảng lảng chốn hư không làm đắm say hồn lữ khách. Trong gió ngàn xa, trong sự tôn nghiêm, linh thiêng của đền thờ vua Đinh-vua Lê, núi chùa Bái Đính, am Thái Vi cung, đất Hoa Lư như giúp mỗi chúng ta tìm về với cội nguồn xưa cũ, tìm về với chốn tiên cảnh bồng lai... Cả nghìn năm Cố đô xưa, non nước, cảnh vật nơi đây vẫn lung linh, tươi sắc, vẹn nguyên. Người dân quê tôi vẫn đậm đà, chân chất, thủy chung. Bao đời nay như thế, và muôn đời sau vẫn thế. Đó chính là chất nhân văn, là nét đẹp của văn hóa nguồn cội-văn hóa làng xã Việt Nam.

Tôi nghe đâu đây âm vọng từ ngàn xưa, của cờ lau Đinh Bộ Lĩnh tập trận trong Hoa Lư động, của áng thơ vua Trần thấm vào trời đất Vũ Lâm. Thành đô xưa, Hành Cung xưa đã đi vào lịch sử. Non nước mây trời Hoa Lư sẽ trường tồn mãi với thời gian. Mong cho cảnh sắc, hồn quê không bị mai một, phôi pha, để trong tâm trí mỗi người đượm đà hình bóng gốc đa quê…

Tháng Giêng Kỷ Sửu

LÊ THIẾT HÙNG