Mối tình của cô thanh niên xung phong và anh lính Trường Sơn thời chiến tranh ấy thật đặc biệt. Họ làm quen qua lời giới thiệu của bạn bè, rồi bén duyên qua những lá thư khi chưa hề biết mặt. Thế mà mối tình ấy rất mãnh liệt, say đắm, nồng nàn và cũng có lúc xót xa...

Tò mò... viết một cánh thư

Đó là câu chuyện tình yêu của bà Nguyễn Thị Kính và ông Nguyễn Đình Hợp, đều là thương binh hạng 2/4 ở xóm 6, xã Ngọc Sơn (Thanh Chương, Nghệ An). Ông Hợp làm bưu tá xã đã 20 năm nay. Trong công việc, ông chẳng nề hà thiệt hơn, vượt qua mọi khó khăn, vất vả, nỗ lực hết mình với nhiệm vụ. Ông trở thành gương điển hình ở địa phương và được nhân dân cảm phục, yêu mến. Nhưng có một điều còn rất ít người biết: Ông Hợp có vinh dự đó nhờ công lao đóng góp rất lớn của bà Nguyễn Thị Kính - vợ ông. Tình cảm vợ chồng ông dành cho “nghề chuyển thư” bắt nguồn từ mối tình đặc biệt, dệt bằng những lá thư...

Vợ chồng ông Nguyễn Đình Hợp và bà Nguyễn Thị Kính.

Ông Hợp quê ở huyện Nghi Lộc (Nghệ An), mồ côi cả cha lẫn mẹ từ lúc 2 tuổi, được người anh cả nuôi dưỡng, rồi đi bộ đội. Năm 1966, ông vào Nam chiến đấu ở miền Tây tỉnh Bình Định. Năm 1967, ông Hợp tình cờ gặp một người bạn trên đường hành quân, tên là Chiến. Trong lúc nói chuyện, Chiến giới thiệu cho anh lính trẻ Nguyễn Đình Hợp một cô gái mà Chiến quen biết hồi đóng quân ở Nghệ An. Đó là cô Nguyễn Thị Kính, năm ấy mới 18 tuổi, làm thư ký đội sản xuất xã Ngọc Sơn, huyện Thanh Chương. Với sự tò mò, tinh nghịch của tuổi trẻ, Hợp viết thư làm quen với Kính.

Chị Kính nhận được thư của một người lính từ chiến trường gửi về, chưa hề quen biết, lúc đầu cũng phân vân nhưng sau mới biết là do anh Chiến giới thiệu nên đã mạnh dạn viết thư trả lời. Những lá thư của hai người gửi cho nhau ngày càng nhiều, và mối tình của họ cũng ngày càng chan chứa tình yêu sâu nặng. Những giây phút hiếm hoi sau trận đánh, hoặc tạm dừng chân giữa đường hành quân là Hợp lại viết thư gửi người yêu. Còn cô Kính cũng chẳng kém gì anh, ban ngày tất bật với ruộng đồng, ban đêm ngồi dưới căn hầm trú ẩn với ngọn đèn dầu, ghi chép sổ sách xong là viết thư cho anh lính trẻ.

Năm 1968, cuộc chiến tranh vệ quốc ngày càng khốc liệt. Chị Kính đã tình nguyện đi thanh niên xung phong, với suy nghĩ muốn cống hiến tuổi thanh xuân cho cuộc kháng chiến chống Mỹ và hy vọng vào chiến trường sẽ được gặp người yêu. Nhưng đơn vị chị lại mở đường ở phía Tây tỉnh Quảng Trị, còn anh đã di chuyển vào phía trong. Rồi đột nhiên, hai người bặt tin nhau, bởi thời gian này cả hai người bị thương rất nặng. Hợp bị trúng bom na-pan, cháy sém vùng cổ, ngực và làm khuôn mặt bị biến dạng. Còn Kính bị bom vùi gẫy tay, chân. Do sức ép của bom, chị ngất đi, đồng đội đã khâm liệm, chờ chôn cất. Mấy người bạn đồng hương chạy đến xem mặt, ôm chị khóc hồi lâu thì bất ngờ thấy chị Kính có dấu hiệu thở thoi thóp... rồi chị đã được  cứu sống

Vượt qua thương tật

Sau thời gian điều trị, chị Kính phục viên về địa phương, còn anh Hợp được điều trị ở bệnh viện tiền phương rồi chuyển ra miền Bắc điều trị ở khắp các bệnh viện. Thời gian này, hai người đã viết thư liên lạc được với nhau. Nhưng khác với những lá thư hồi chưa bị thương, thư nào Hợp cũng nói rằng: Anh bị thương quá nặng, mặt, mũi, tai bị cháy đen thui, cổ và ngực cũng bị bỏng dúm dó loang lổ, nên không thể lấy vợ. Anh Hợp bảo chị Kính hãy xem anh như người bạn thân thiết vì không muốn Kính lấy một người chồng có khuôn mặt dị dạng. Song chị đã viết rất nhiều thư trả lời rằng vẫn thương yêu anh nồng nàn. Có những lá thư nước mắt làm nhòe nét chữ. Trong những lá thư ấy, chị an ủi động viên, rồi thề non hẹn biển sẽ không lấy ai khác làm chồng ngoài Hợp. Chị rất mong gặp anh để bàn chuyện trăm năm.

Năm 1973, vì tình cảm khát khao, cháy bỏng, anh Hợp quyết định rời trại điều dưỡng về Thanh Chương gặp người yêu. Để không ai biết khuôn mặt đen đúa, đầy sẹo của mình, Hợp quấn khăn trùm kín, mắt đeo chiếc kính râm, đầu đội mũ cối. Vì có hẹn trước nên hôm đó chị nóng lòng đợi anh. Anh vừa xuất hiện ngoài cổng, chị vội chạy ra cầm tay anh kéo vào nhà. Chị tự tay cất chiếc mũ cối và gỡ khăn trùm mặt của anh ra. Bỗng chị thét lên một tiếng kinh hoàng, hai tay ôm lấy đầu, lảo đảo chạy vào buồng nằm ngất lịm. Bố chị phải đi gọi y tá đến cấp cứu, còn mẹ chị lấy dầu xoa bóp. Cảnh tượng xảy ra quá bất ngờ làm Hợp đau đớn như có muôn vàn mũi kim đâm vào trái tim anh. Anh ôm mặt khóc như một đứa trẻ. Đợi lúc chị Kính hồi tỉnh, Hợp xin phép ông bà Kính ra về... Ông Kính cầm tay Hợp, động viên: “Con cứ yên tâm. Kính vẫn rất thương con. Tất nhiên là trước sự thực quá đỗi thương tâm của con, Kính hơi giật mình. Bây giờ con cứ về nghỉ ngơi đi đã”.

Anh Hợp về rồi, chị Kính rất hối hận: Tội nghiệp anh quá! Chị nghĩ anh chẳng có tội tình gì, vì những vết thương trên khuôn mặt anh và trong thân thể chị đều do bom đạn Mỹ gây ra. Cũng chính hôm đó, chị Kính nói dứt khoát với bố mẹ là sẽ không lấy ai làm chồng ngoài anh Hợp. Và rồi ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, cũng là ngày hai người làm lễ thành hôn.

Giờ đây ông Hợp đã bước vào tuổi 66, còn bà Kính ở tuổi 62. Mối tình của họ đã hơn 40 năm vẫn đằm thắm yêu thương, sắt son tình nghĩa. Họ thấy như mắc nợ đời mình với những lá thư. Ông Hợp làm bưu tá xã chỉ được vài trăm nghìn đồng mỗi tháng, trong khi phải đi hơn 60km mỗi ngày. Nếu đi bằng xe máy thì chẳng đủ tiền mua xăng, nhưng như bà Kính nói: “Cái lời là ở niềm vui và hạnh phúc của vợ chồng tôi và cả mọi người khi nhận được thư. Hạnh phúc ấy, dù có nhiều tiền cũng chẳng thể nào mua được”.

Nói rồi, bà Kính đọc cho tôi nghe bài thơ ông đã tặng bà thời ở chiến trường: “… Đã yêu nhau đâu quản giàu nghèo/ Đâu phải vì sắc đẹp quyền cao/ Hạnh phúc ấy không thể nào tồn tại/ Đối với anh và cũng là mơ ước/ Anh chỉ cần đạo đức tình thương/ Dù là cây có rải làm giường/ Dù ăn rau hay chia nhau bát cháo/ Chăn không có, ta đắp chung chiếc áo/ Trọn một mối tình, đời thấy đẹp biết bao…”.

Bài và ảnh: ĐẶNG VĂN MINH