Đầu năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của chúng ta bước vào giai đoạn tổng phản công. Nhiệm vụ của quân báo lúc này là chuẩn bị chiến trường cho bộ đội. Năm đó, tôi 26 tuổi, giữ chức Tiểu ban phó quân báo Ban tham mưu Tỉnh đội Bà Rịa-Chợ Lớn. Cấp trên chỉ thị cho tôi cải trang vào Sài Gòn để vẽ bản đồ và nắm chi tiết quân số, vũ khí, các đồn bốt trong hệ thống chỉ huy của Bảy Viễn từ cầu Rạch Ông, cầu chữ Y đến cầu Nhị Thiên Đường.

Từ căn cứ Rừng Sác, tôi theo đội giao liên vượt sông Soài Rạp đến khu rừng thuộc xã Phước Long, huyện Nhà Bè. Nghỉ một ngày lấy lại sức, đêm xuống, đồng chí Hữu – Bí thư kiêm chủ tịch xã dẫn tôi về nhà anh ở phía Nam Sài Gòn. Đây là khu vực mà Bảy Viễn thường tổ chức lực lượng đi sục sạo.

Cả nhà chỉ có một hầm bí mật cho anh Hữu. Vùng này hầm bí mật rất khó đào vì chỉ đào xuống vài tấc là có nước nên việc đào hầm rất khó khăn. Tôi chưa nằm hầm bí mật bao giờ, nên rất sợ bị ngạt không chịu nổi trong trường hợp địch sục sạo lâu. Đang chưa biết trốn ở đâu thì em gái anh Hữu, tên là Tốt đưa ra sáng kiến: “Cho ảnh trốn tạm xuống ghe đi. Có giặc đi ruồng, tôi ra ám hiệu cho ảnh chui vào đống lưới trong khoang. Tôi xuống ghe ngồi vá lưới canh chừng cho”. Anh Hữu tán thành: “Phải đó, giặc thường không sục ngoài rạch đâu”. Nhưng bà nội anh Hữu do dự: “Nếu tụi nó mò ra đó, tụi bây tính sao”. Cô Tốt nũng nịu với bà: “Thì con sẽ cản tụi nó. Con không để ảnh chết đâu”. Nghe cô Tốt giải thích, bà nội của anh Hữu đồng ý theo phương án đó.

Cựu chiến binh Tư Cang (thứ hai từ phải sang) kể chuyện cho bạn trẻ nghe tại tư gia.

Chiếc ghe mui nhà anh Hữu nằm sát bờ rạch dưới một lùm dừa. Tôi khom lưng bước vào. Tốt cũng xuống theo. Trong ghe, trên tấm ván sạp có một đống lưới, một con dao nhỏ và dụng cụ vá lưới. Tốt nói: “Anh Ba em dặn, từ bây giờ đến chiều, anh ngồi yên dưới nầy. Cơm nước em lo. Nếu giặc đi càn, em kêu “vện, vện” hai tiếng một thì anh nằm sát xuống rồi phủ lưới kín người. Em sẽ ngồi vá lưới để canh chừng và đối phó với bọn chúng”. Tôi cười: “Có em bên cạnh thì anh yên tâm. Đừng để giặc bắt anh nhé”. Tốt cười và nói: “Coi bảnh trai, ngon lành vậy mà cũng sợ chết hả ?”. Nói xong, Tốt chạy trở vào nhà, mái tóc xõa trên vai mang hương dầu dừa thơm mướt, thân hình gọn gàng trong bộ bà ba màu đen. Tôi nghĩ bụng: “Những cô gái vùng ven đô có kinh nghiệm đối phó với địch nhưng cảnh giác, đề phòng vẫn hơn. Mình phải “diễn tập” phương án đối phó mới được”. Tôi đưa khẩu súng ngắn ru-lô ra kiểm tra lại đạn rồi nằm sát xuống sạp ghe, lấy lưới trùm lên người. Hình như còn lộ hai bàn chân, tôi phải co vào chút nữa. Từ tấm lưới toát ra mùi bùn, mùi cá tanh tanh. Lúc đầu tôi cũng thấy khó chịu nhưng rồi quen dần. Cha ! Hơi ngộp đây. Tôi thầm đánh giá: Chui vào đây chừng nửa tiếng thì được, lâu hơn nữa xem chừng gay go.

Bỗng có tiếng chân người bước xuống ghe. Tôi nằm im trong đống lưới. Người ấy lên tiếng: “Anh ơi ! Anh gì đâu rồi !”. Thì ra là Tốt. Tôi đáp: “Ở đây nè”. Tốt cười: “Có báo động thì anh hãy chui chớ. Nực lắm, chịu sao nổi. Thôi anh ra ăn sáng đi, lát nữa gặp bọn giặc đi ruồng thì nhịn đói cả ngày đó”.

Tôi tốc lưới ngồi dậy. Trên ván sạp đã bày sẵn một tô hủ tíu, một đôi đũa tre, một trái xoài chín và một con dao nhỏ. Tô hủ tíu còn nóng, bốc hơi thơm phức. Đã lâu lắm rồi tôi mới thưởng thức cái hương vị đặc biệt này. Loáng cái tôi đã "làm xong" tô hủ tíu và trái xoài ngọt lịm. Bữa ăn sang trọng quá, tôi thấy người nghe khỏe lại nhiều. Tốt dọn dẹp, đem đi và dặn: “Anh đi nghỉ đi nhưng đừng ngủ quên, nhớ tín hiệu báo động đấy”.

Tôi dựa lưng vào mui ghe, nhắm mắt lắng tai nghe âm thanh quen thuộc của xóm nghèo trong buổi sáng. Con heo đòi ăn trong chuồng. Con gà cục tác nhảy ổ. Bầy vịt cạp cạp dưới ao… Tất cả thật thân thuộc mà người chiến sĩ đã lâu mới được nghe. Đang lim dim tận hưởng giây phút thanh thản, bỗng tôi nghe tiếng Tốt vọng lên: “Vện, vện, chết mầy nghen !”.

Đúng tín hiệu báo động rồi. Tôi cầm nhanh khẩu súng ngắn, phủ tấm lưới kín người, bụng bảo dạ: “Thằng nào rờ vào lưới sẽ ăn đạn, rồi mình sẽ phóng xuống rạch, chạy luôn ra sông”. Từ trong nhà vọng ra: “Ê, con nhỏ ! Đi đâu đó ?”. “Tôi đi vá lưới mà”. “Không đi đâu cả, vào nhà”. Tiếng bọn giặc quát tháo ầm ĩ. Vậy là Tốt không xuống được như đã hiệp đồng với tôi. Càng hay, tôi sẽ tự do hành động, bắn rồi chạy, khỏi vướng đến em. Tiếng bọn giặc trong nhà lại vang lên: “Ê, Tư Bụng, kiếm cái gì trưa nhậu nghen mầy”. Tiếng hách dịch của tên chỉ huy: “Tư Bụng ơi, xuống ghe bợ cái rộng tôm đi mày”. Rồi nhiều thằng hưởng ứng: “Phải đó. Tôm càng nướng trộn với bắp cải nhậu cũng bắt lắm”.

Chết rồi ! Thế nào chúng cũng mò xuống đây. Tôi chuẩn bị tư thế để bung ra, bắn vài phát rồi chạy. Một quân nhân cách mạng có súng trong tay, không thể nằm im cho giặc bắt sống được.

“Mấy anh ơi”. Tôi nghe rõ riếng Tốt. “Mấy anh xuống ghe dơ chân mất công. Con nước rông hôm nay đâu có câu kéo gì đâu. Nếu kẹt đồ nhậu thì bắt đỡ con gà mái này nè. Bữa nào nước kém, em đi lưới được để dành tôm ngon cho mấy anh” - Tốt nói.

“Con nhỏ ăn nói nghe được quá ta !”. Hình như là tiếng thằng Tư Bụng, tôi nghe tiếng hắn đã rất gần ghe. Tiếng giày đinh trở vào trong nhà. “Đâu, con gà mái đâu”. “Nhà em, mấy ảnh còn lạ gì. Ở trong buồng đó, mấy ảnh vô mà bắt”.

Một lúc sau, tôi nghe tiếng gà kêu. Rồi tôi lại nghe tiếng bọn giặc: “Thịt luôn tại đây nghe trung úy”. “Không. Đem về nhà bà Năm Béo trên chợ. Dưới này ớn lắm, ăn mất ngon”.

Tiếp theo là sự im lặng. Tiếng chó sủa xa dần. Có tiếng người đi xuống ghe. Tôi nghe một giọng trong trẻo, dễ thương: “Anh gì ơi. Ra đi. Tụi nó đi rồi”. Tôi chui ra khỏi đống lưới, đặt khẩu súng ngắn bên cạnh. Tốt nói: “Trời, ghê quá. Chút xíu nữa thằng Tư Bụng bước xuống ghe đó”. “Ừ, anh có nghe. Em giỏi quá. Anh tưởng phải một phen sinh tử với nó đó”.

Tốt chủ động cầm lấy tay tôi, nói: “Anh biết không, nội và anh Ba khen em sáng ý đó. Em không hiểu sao lúc đó lại nghĩ ra con gà…”.

Tôi vuốt mấy sợi tóc lòa xòa trên trán lấm tấm mồ hôi của Tốt. Đã qua cơn lo lắng, Tốt có vẻ e thẹn, nhè nhẹ rút khỏi tay tôi. Trên khuôn mặt thiếu nữ ửng hồng thật đáng yêu. Tốt cười rất tươi, ghé tai tôi nói nhỏ: “Em vô nấu nhanh nồi cơm để anh kịp ăn trước khi đi nghen”.

Em chui nhanh ra khỏi mui ghe và chạy biến. Tôi nhìn theo, lòng thơ thẩn như vừa bị em mang đi một thứ gì đó thật quý giá ! Ôi, đời chiến sĩ quân báo, nay đây mai đó, sinh tử khó lường, việc nước còn nhiều, phải biết tự kiềm chế tình cảm, đừng để khổ cho riêng ai!

Đại tá tình báo Tư Cang