Kỳ 2: Trở lại miền Nam
QĐND - Tạm biệt cuộc sống đầm ấm bên vợ con, điều kiện công tác thuận lợi tại thủ đô Hà Nội, người chiến sĩ tình báo Trần Tiến Cung quay trở lại miền Nam mang theo nhiều trọng trách được giao. Sau 5 năm tạm xa rời quân ngũ, anh quay về với nhiệm vụ nặng nề hơn cùng lòng quyết tâm cống hiến cho cách mạng để mau chóng giành thắng lợi, giải phóng quê hương mình...
Sống trong lòng dân làm cách mạng
Năm 1966, 20 năm sau ngày nhập ngũ, chiến sĩ tình báo Trần Tiến Cung nhận quân hàm Thiếu tá, đảm nhiệm Cụm trưởng Cụm tình báo H32 với bí danh “anh Phong”. Tướng Cung nói rằng, những ngày sống trong lòng địch ở Gò Nổi đã hằn sâu trong ký ức ông bởi kỷ niệm và ấn tượng sâu sắc về tình quân dân và lòng quả cảm, trí thông minh, sáng tạo của quần chúng. Đặc biệt ông càng thấm thía hơn lời Bác dạy: “Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Ông kể: “Tại đây tôi đã chứng kiến những người nông dân chân chất xứ Quảng trở thành chiến sĩ tình báo, nữ giao liên kiên trung… Họ tham gia cuộc chiến tranh thầm lặng, thản nhiên như đi làm ruộng mỗi sáng, mỗi chiều, coi chuyện chết chóc, hy sinh thật bình thường. Tôi nhớ ơn họ, những con người đi vào cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc bằng vẻ đẹp bình dị vốn có của người Việt Nam. Lúc nhận nhiệm vụ, nếu biết bị lộ chỉ có hy sinh hoặc tan cửa nát nhà, nhưng họ vẫn thản nhiên với câu cửa miệng: Dễ òm!”. Chính những con người ấy đã chở che, nuôi dưỡng, giúp những chiến sĩ tình báo như ông xây dựng thành công mạng lưới.
 |
Đoàn trưởng 578 Trần Tiến Cung (bên trái) cùng đồng đội tại Cam-pu-chia năm 1979. Ảnh do nhân vật cung cấp. |
Thiếu tướng Trần Tiến Cung nhớ nhất hồi đó ở Đà Nẵng có ông Phan Kỳ, một nhà tư sản lớn rất giàu có. Nhiệm vụ của tình báo là phải nắm tình hình Vùng 1 chiến thuật của địch do tướng Hoàng Xuân Lãm chỉ huy mà thư ký của hắn lại là cháu ông Phan Kỳ. Sau khi nghiên cứu, tính toán, Cụm trưởng H32 đã giao nhiệm vụ cho cán bộ cấp dưới Nguyễn Văn Quý tìm cách bắt liên lạc với nhà tư sản Phan Kỳ để móc nối vào hàng ngũ địch. Thành công của lực lượng tình báo chính là việc đưa được ông Phan Kỳ đến chiến khu của ta để gặp chỉ huy và đồng chí Hồ Nghinh, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đà. Hơn cả sự mong đợi, ông Phan Kỳ đã sẵn sàng nhận nhiệm vụ hợp tác cùng với cách mạng và đồng thời kết nghĩa anh em với "anh Phong”. Từ đây, ông Phan Kỳ đã dốc lòng, dốc sức đóng góp tiền bạc và nuôi giấu cán bộ cách mạng. Tuy nhiên, tới năm 1972, đường dây bị lộ, nhà tư sản Phan Kỳ bị bắt đày đi Côn Đảo, sản nghiệp tan nát hoàn toàn. Trong tù, dù bị tra tấn dã man nhưng ông Kỳ vẫn kiên quyết không khai, giữ vững khí tiết của một cơ sở cách mạng. Cũng trong thời kỳ ngày, Trần Tiến Cung đã tổ chức đấu nối thành công với thượng sĩ Huỳnh Trung Bá của Phòng Tài vụ Sư đoàn 2 ngụy để thường xuyên cung cấp thông tin cho Cụm H32. Đồng thời năm 1967, lực lượng tình báo do ông chỉ huy đã chuyển và lắp đặt an toàn một máy phát tín hiệu RT3 hai chiều để chuyển thông tin từ Đà Nẵng ra Hà Nội và ngược lại.
Một lần nữa biến cố cuộc đời lại đến với ông, cuối năm 1967 Trần Tiến Cung bị chảy máu dạ dày phải đưa ra Bắc điều trị. Niềm vui gặp lại gia đình chưa tày gang thì vợ ông mất vì bạo bệnh để lại cho ông 3 con thơ cùng nỗi đau vô hạn. Tình thế khó khăn nên tổ chức đưa ông về làm Trưởng ban Tình báo (thuộc Phòng 73) chỉ huy lực lượng điệp báo miền Nam.
Cuộc chiến thời bình
Năm 1969, Trung tá Trần Tiến Cung gặp gỡ và kết duyên với bà Nguyễn Thị Phán (sau này là Phó chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng), khi đó đang là Cửa hàng trưởng quầy Nam bộ của Bách hóa tổng hợp Hà Nội. Bà Phán cùng cảnh ngộ, chồng là bộ đội hy sinh, cũng đang nuôi 3 con nhỏ nên đã đồng ý về với ông. Sau khi giải phóng miền Nam, đầu năm 1977, Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đã gọi Trưởng ban tình báo Trần Tiến Cung lên để giao nhiệm vụ mới. Khi ấy tại các tỉnh Tây Nguyên có một bộ phận nhân dân Cam-pu-chia bị Pôn Pốt đàn áp dã man nên đã chạy sang Việt Nam, tập trung ở khu vực Chư Mo Ray, huyện Sa Thầy, tỉnh Gia Lai - Kon Tum (cũ). Thêm nữa là tình hình biên giới Tây Nam phức tạp, có thời điểm quân Pôn Pốt đã đánh sâu vào nội địa nước ta. Trước đó, Đoàn 11 thuộc Cục Nghiên cứu (nay là Cục 11 thuộc Tổng cục II) được thành lập, Trần Tiến Cung đảm nhiệm vai trò Đoàn trưởng. Tướng Cung nhớ lại: “Sau khi xuống địa bàn, qua đèo Ngọc Linh chúng tôi đã gặp người dân Cam-pu-chia ly khai nhưng không tiếp xúc ngay với họ được. Vài ngày sau, chúng tôi dần bắt chuyện thì mới biết họ sợ chính quyền Việt Nam không thực lòng giúp mà bắt họ trả về cho Pôn Pốt. Chúng tôi đã phải tích cực tuyên truyền vận động họ vứt bỏ gánh nặng đó và yên tâm rằng người Việt Nam sẽ giúp nhân dân Cam-pu-chia chống lại Pôn Pốt…”. Không chỉ bằng lời nói suông, Trần Tiến Cung đã điện về báo cáo Thượng tướng Trần Văn Quang (Thứ trưởng Bộ Quốc phòng) xin chủ trương và mua thêm nhiều đồ dùng sinh hoạt, quần áo, thuốc men, mắm muối… để hỗ trợ người dân Cam-pu-chia tị nạn. Khi tình nghĩa nhân dân hai nước đã nhen nhóm gắn bó, năm 1978 Đoàn 578 được thành lập (tương đương Sư đoàn) do Trần Tiến Cung làm Đoàn trưởng, Bí thư Đảng ủy là đồng chí Quế (thư ký của Tư lệnh Quân khu 5 Chu Huy Mân). Thành phần của đoàn chủ yếu gồm 2 lực lượng là người Cam-pu-chia ly khai từ Lào qua Việt Nam và từ Đông Bắc Cam-pu-chia sang. Đoàn này có nhiệm vụ sang nước bạn xâm nhập, tổ chức giúp nhân dân Cam pu-chia chống lại Pôn Pốt và bọn phản động lưu vong.
 |
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Thiếu tướng Trần Tiến Cung năm 1996. Ảnh do nhân vật cung cấp. |
Thiếu tướng Trần Tiến Cung kể tiếp: “Sau một thời gian, công việc tiến triển tốt, đồng chí Lê Đức Thọ đã rút tôi vào TP Hồ Chí Minh hoạt động, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ông về vấn đề quốc tế. Bây giờ dù đã ngoài 80 tuổi nhưng tôi vẫn giữ mãi ấn tượng sâu đậm và niềm vinh dự trong cuộc đời là được 2 lần làm thư ký và trợ lý cho hai đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị”. Năm 1980, Bộ Quốc phòng cử một đoàn cán bộ tình báo sang Liên Xô học tập, một lần nữa Đại tá Trần Tiến Cung lại làm Đoàn trưởng. Thời gian học tập ở đây đã giúp ông rất nhiều, hành trang khi mang về nước không chỉ là những kiến thức nghiệp vụ tình báo mà còn là kỷ niệm sâu sắc về tình bạn, tình hữu nghị của bạn bè quốc tế dành cho Việt Nam. Tháng 6-1981, ông về nước về được bổ nhiệm làm Phó phòng 73, Cục Nghiên cứu (Bộ Tổng tham mưu). Trong thời gian ở đây, ông đã tham gia chỉ đạo phá những vụ án lớn do bọn tội phạm xâm nhập trái phép lãnh thổ Việt Nam với âm mưu gây rối, lật đổ như Võ Đại Tôn, Hoàng Cơ Minh… Năm 1984, ông trở lại làm Đoàn trưởng Đoàn 11 rồi tới năm 1995 ông đảm nhiệm vị trí Phó tổng cục trưởng Tổng cục II. Vị tướng tâm sự rằng: “Từ đây tôi chuyển sang một lĩnh vực công tác mới, không còn làm nghiệp vụ tình báo mà tập trung chỉ đạo, theo dõi, xây dựng lực lượng quân báo và trinh sát toàn quân. Cho tới năm 1998 tôi có quyết định nghỉ hưu và năm 2000 thì chính thức nhận sổ, tôi về sống một cuộc sống yên bình ở Đà Nẵng”.
Tri ân với cuộc đời
Với bản chất của con người cách mạng, về Đà Nẵng ông lại được Ban thường vụ Thành ủy đề nghị làm Chủ tịch Hội Cựu chiến binh thành phố đồng thời được bầu làm Ủy viên Thường vụ Ban chấp hành Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Trong thời gian này, vị tướng nghỉ hưu đã hăng say tổ chức xây dựng hội vững mạnh, phát huy thế mạnh của cựu chiến binh trong tham mưu cho cấp ủy, chính quyền cơ sở. Đồng thời giáo dục con cháu, tuyên truyền cho quần chúng, phát động, ủng hộ giúp cựu chiến binh nghèo, hoạt động từ thiện… Năm 2005, khi bước sang tuổi 76, Thiếu tướng Trần Tiến Cung bàn giao nhiệm vụ, không tham gia tổ chức chính trị, xã hội nào nữa.
Nheo mắt nhìn lên tường căn nhà xây đơn sơ treo đầy huy chương, bằng khen và những bức ảnh kỷ niệm, vị tướng già khẽ mỉm cười rồi nói với tôi: “Nhìn lại hơn 80 năm tuổi đời, hơn 60 năm tuổi Đảng, 55 năm tham gia hoạt động cách mạng, tôi thấy mình đã được rất nhiều. Trong quá trình công tác, tôi luôn phấn đấu không mệt mỏi, cái tâm luôn trong sáng nên lòng thấy thanh thản vô cùng. Có như ngày hôm nay, tôi cảm ơn Đảng, Nhà nước, quân đội đã cho tôi đường đi đến tương lai để có cuộc đời hoàn hảo. Cảm ơn nhân dân đã nuôi dưỡng tôi, các con tôi trong những năm chiến tranh ác liệt. Và tất nhiên tôi mang ơn hai bà vợ trung hậu, đảm đang luôn sát cánh cùng tôi trong mỗi bước ngoặt cuộc đời. Đằng sau quân hàm cấp tướng là hình bóng tần tảo, thương yêu chồng con hết mực của các bà... Bây giờ các con tôi đều sinh sống ở TP Hồ Chí Minh nhưng tôi vẫn ở lại Đà Nẵng và nhờ một người cháu chăm sóc. Cuộc đời tôi sinh ra, lớn lên, chiến đấu, trưởng thành với mảnh đất Khu 5 này và tôi cũng nguyện sống đến cuối đời và ra đi từ đây. Tổng kết cuộc đời, tôi càng thấm điều Bác dạy: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Câu nói đó không dễ gì thực hiện được nhưng người chiến thắng sẽ rất tự hào về sự nghiệp cách mạng của mình, họ sẵn sàng hy sinh tất cả cho nền độc lập, tự do của dân tộc và đất nước”.
Chia tay ông với cái bắt tay nồng ấm của vị tướng già, bước chân ra cửa tôi vẫn thấy thấp thoáng nụ cười hiền hậu thanh thản của ông…
--------------
Kỳ 1: Quê hương và đồng đội
Hoàng Trường Giang