 |
|
Cuốn sách về Danh tướng Nguyễn Chánh luôn được các cụ trong ngõ xóm thích nghe mỗi lần bà Trinh đọc. Ảnh: VŨ QUANG THÁI |
Chuyện một cô gái sông Trà (Kỳ 1)
Chuyện một cô gái sông Trà (Kỳ 2)Chuyện một cô gái sông Trà (Kỳ 3)Bà nhớ rõ: Cuối tháng 8-1957, về nhà được vài hôm, ngày Quốc khánh 2-9-1957, anh Nguyễn Chí Thanh ở gần nhà, sang chơi. Anh vui vẻ bắt tay và nói: “Nghe “Bà” đi sửa sai về sang thăm. Có chuyện gì hay kể nghe cho vui”. Bà trả lời: ‘Nếu anh cho phép, tôi xin nói thật nhận xét của tôi”. Anh bảo: “Ô hay! cái bà Trinh này, cứ nói đi chứ việc gì mà phải xin phép”. Biết anh Thanh vốn rất thẳng thắn nhưng chân thật, cởi mở, sau khi trình bày một số thống kê rõ ràng, đầy đủ, bà nói: “Thưa anh, qua đợt sửa sai ở huyện tôi công tác, tôi thấy Đảng đánh giá kẻ thù giai cấp chưa đúng thực tế. Giai cấp địa chủ ở đây không lớn như ta nghĩ. 9 năm kháng chiến, ta thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức, địa chủ hưởng ứng nên ruộng đất thu hẹp lại nhiều. Địa chủ chỉ có 20 mẫu đất là cùng, họa hoằn mới có trường hợp 30 mẫu. Phần lớn chỉ có một vài mẫu ruộng, chủ yếu sống bằng buôn bán và thu thêm tô, không gây hại, chống đối gì lớn. Tôi nghĩ rằng, một khi cơ sở kinh tế không lớn, thì uy thế chính trị của nó không lớn, sự phản ứng giai cấp vì thế cũng không thể nào mạnh. Lực lượng nó nhỏ nhưng ta đề cao nó quá mức”. Anh Nguyễn Chí Thanh nói lớn: “Bà Trinh cả gan thật”, nhưng rồi anh cười khà khà giòn tan và nhắc lại: “Kinh tế kẻ thù không lớn thì uy thế chính trị của nó không lớn. Chị khá thật, chưa học lý luận mà kết luận như một nguyên lý triết học. Thôi, tôi phải về đi họp, mai “Bà” sang tôi chơi, nói chuyện tiếp nhé”. Anh siết chặt bàn tay bà.
Vào trường Nguyễn Ái Quốc chưa đầy 20 ngày, một tổn thất không gì sánh được đổ ập xuống cuộc đời bà. Đó là ngày 24-9-1957 đau thương vô hạn. Ông Nguyễn Chánh đột ngột từ trần đang độ tài năng phát triển, cả ông và bà mới ở tuổi 43. Ông được giao trọng trách làm chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ, một Tổng cục mới có vị trí rất quan trọng đến sự phát triển lớn mạnh của quân đội ta. Có lẽ do việc nước, việc quân quá căng thẳng, vốn lại gầy yếu, nên ông bị đột quỵ tim mạch. Ông mất khi cậu con cả mới tròn 20 tuổi và cậu út hơn 2 tuổi. Nợ nước tình nhà đã đè nặng trĩu lên vai bà. Nhiều người thân yêu trong gia đình lo lắng lần này bà sẽ gục ngã. Nhưng không, nhớ những gì ông từng tâm sự, bà gượng dậy và đứng lên. Bà nén đau thương để tiếp tục hoàn thành chương trình khóa một của trường Nguyễn Ái Quốc. Để thuận tiện cho mình và cho đồng chí, bà trả lại khu biệt thự với vườn rộng 2.000 mét vuông ở Lý Nam Đế cho Bộ Quốc phòng, về khu của cơ quan Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ, ở theo tiêu chuẩn của mình và tiếp tục công tác. Ở tuổi 55, người ta vẫn thấy bà cắp cặp dự đều các lớp “Chuyên đề cụ thể” bậc đại học về kinh tế, văn-sử-địa, do các giáo sư đầu ngành giảng dạy. Ai đã từng chứng kiến cảnh sơ tán trong năm 1972, khi giặc Mỹ rải bom B52 ở Thủ đô, mới thấu hiểu hết những gian khổ vô vàn của người mẹ. Các con bà đã trưởng thành, bà vào sống luôn trong cơ quan, trực công tác và giải quyết việc sơ tán cho các cháu nhỏ về nông thôn, không nề nguy hiểm, đạp xe đạp vượt qua biết bao địa điểm bị đánh phá hết sức ác liệt. Tháng 4-1975, bà bị một cơn đau tim tưởng không qua được. Không hiểu bởi sức mạnh gì mà khi nghe tin giải phóng hoàn toàn miền Nam, bà thấy người khỏe trở lại. Bà được Ban Đấu tranh thống nhất tổ chức về thăm quê hương. Suốt một tháng trời đi khắp các làng xưa xóm cũ tiêu điều xơ xác vì chiến tranh, lòng bà đau như cắt, tìm thăm hết những người thân quen, thắp hương trên mộ những đồng chí đã hy sinh, bồi hồi xúc động biết bao khi nhớ lại thời tuổi trẻ của một cô gái sông Trà.
Trở ra Bắc, nghĩ mình đã ngoài 60 tuổi, ước mơ giành được độc lập, tự do, thống nhất đã thành công vẹn tròn, bà xin được nghỉ hưu. Bà quyết định giã từ cuộc sống nội đô tạo lập cuộc sống thôn dã trong ngôi nhà nhỏ hiện nay để thực hiện những dự kiến cho quãng đời còn lại. Thay ông làm mẹ và cả làm cha, bà thường khuyên bảo các con: “Đừng bao giờ núp bóng dưới ô dù cha mẹ để tiến thân, đừng đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải làm gì cho mình, mà hãy đi lên bằng đôi chân và tim óc của chính mình”. Các con bà cũng nhận thức sâu sắc được điều đó, 5 người đã qua trình độ đại học, trong đó có 4 người trực tiếp chiến đấu chống Mỹ trở thành cán bộ cao cấp, trung cấp trong quân đội, còn cháu bé Tuyết Minh ngày nào ở trong lao tù với mẹ là tiến sĩ khoa học. Cậu con bị câm rất sáng dạ, làm công nhân quốc phòng hoàn thành rất tốt nhiệm vụ, đơn vị ai cũng quí mến. Trong bối cảnh chung của cả nước, biết gia đình các con còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, bà bắt tay nuôi heo, gà, vịt, trồng nhiều rau, thường xuyên làm nguồn “tiếp tế” cho các con những trái bí, mướp, mớ trứng, mớ rau và cả những con gà, con vịt nặng 2-3kg. Bà còn cung cấp thực phẩm và heo giống cho các bà bạn cố tri và xóm giềng nghèo thân quen. Để xua đi nỗi ân hận day dứt trái tim bà, bằng đồng lương hưu của mình trang trải, bà sống chung với cậu con câm có vợ cũng bị câm, nuôi dạy hai cháu nội khỏe mạnh bình thường như mọi người, biết chăm ngoan học tập, giúp đỡ cha mẹ. Bà tham gia câu lạc bộ Sông Tô, viết hồi ký và viết sách.
 |
|
Ảnh Danh tướng Nguyễn Chánh và bà Phạm Thị Trinh chụp năm 1946 ở Quảng Ngãi, khi đó ông là Chính trị viên Đội Du kích Ba Tơ, còn bà là Tỉnh ủy viên, Hội trưởng Hội Phụ nữ Quảng Ngãi (Ảnh chụp lại). |
Thật không thể ngờ được, không qua một trường lớp chính qui nào, từ những buổi “Thính giảng có một không hai” trong nhà xí của nhà lao Quảng Ngãi mà tập 35 của Tổng tập văn học Việt Nam, đã xếp riêng tên bà với tư cách một tác giả cùng với việc tuyển chọn đăng một số bài thơ hay của bà. Tôi xin ghi lại theo trí nhớ những vần thơ xao động lòng người khi bà trở về thăm quê đứng bên sông Trà, nhớ lại lúc hai tay nách hai con thơ, nhìn theo chồng bị địch bắt đem đi: “Nỗi nhớ của chúng tôi có cả hai người, Em ở đầu sông mong thuyền ngược gió,/ Sóng phủ trắng thuyền như có anh trong đó,/ Chiều nào cũng đợi thuyền lên/ Anh ở cuối sông, ngọn nước xuôi dòng/ Uống ngụm nước có lời thơ trong đó, /Anh hằng mong con thuyền xuôi gió/ có một người cùng xuôi với thuyền con/…”. Khó có thể hình dung nổi, ở tuổi bát tuần, chỉ trong vòng 4 năm, bà đã góp phần cống hiến cho hậu thế 3 cuốn sách đắt giá. Năm 1995, Nhà xuất bản Phụ nữ cho ra mắt bạn đọc cuốn hồi ký “Những chặng đường của người mẹ” kể lại một cách hết sức mộc mạc, chất phác, chân thật cuộc đời mình gắn liền với phong trào cách mạng của nhân dân và phụ nữ nước ta, ai đã được đọc đều cảm thấy tự hào và xúc động không cầm được nước mắt. Chuyện rằng, có một cậu học trò tên Ngô Như Bình học giỏi lắm và rất ham hiểu biết, đã học nghiên cứu sinh ở Liên Xô và bây giờ là giảng viên Trường đại học Harvard ở Mỹ, tình cờ đọc được cuốn hồi ký đời bà. Anh vô cùng cảm kích và yêu quí bà như người bà ruột thịt của mình. Anh dạy bộ môn Tiếng Việt cho sinh viên Mỹ. Hằng năm mỗi lần đưa sinh viên Mỹ về Việt Nam thực tập, anh đều không quên đến thăm bà, ăn với bà bữa cơm có rau muống luộc và món cá bống đặc sản của Quảng Ngãi quê bà, mê mải ngồi trò chuyện với bà mấy tiếng đồng hồ liền. Với anh và anh cũng thường nói với sinh viên Mỹ: “Ông bà là những mẫu người Việt Nam điển hình của một thế hệ hy sinh quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, là những tấm gương sáng cho hậu thế noi theo”. Tình cảm sâu đậm của anh dành cho bà gần 40 năm trời không hề suy suyển. Có một cô gái tên Phương, bạn học của con út bà, đọc được cuốn hồi ký của bà, từ bên Đức về, đã xin đến được thăm và tỏ lòng ngưỡng mộ bà. Lại có một chuyện khác, nhân dịp đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (4-2007), được đọc một bài viết ngắn trích hồi ký của bà đăng trên Báo Quân đội nhân dân của phóng viên Lan Vi, Thượng tá Lưu Xuân Lộc, Phó giám đốc Trung tâm huấn luyện và bồi dưỡng nghiệp vụ, Cục Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp, Bộ Công an, đã hỏi tìm địa chỉ và đến thăm bà. Bà sợ hết hồn vì tưởng các cháu có việc gì mà công an đến nhà. Nhưng đến khi anh Lộc mang hoa, quà và không quên “phong bì” tặng bà thì bà mới yên tâm. Bà đón nhận hoa, quà nhưng từ chối nhận “phong bì” và nói là lương hưu của bà đã đủ sống rồi. Chấp nhận lời đề nghị chân thành của anh Lộc, bà nhận anh làm con nuôi và tặng anh cuốn hồi ký đời bà. Về nhà, anh đọc ngấu nghiến và đêm đó gọi điện thoại nói với bà trong tiếng khóc nức nở: “Mẹ ơi! Con thương mẹ quá! Sao đời mẹ lại khổ đến thế!”. Từ đó đến nay anh luôn quan tâm thăm hỏi bà. Năm 1997, bà trực tiếp tham gia giúp đồng chí Thân Hoạt (chủ biên) và nhà văn Nguyên Ngọc biên soạn cuốn hồi ức dày 600 trang “Nguyễn Chánh-Con người và sự nghiệp” (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân-1997) được dư luận đông đảo đồng chí, bạn bè trong cả nước hoan nghênh. Được giao nhiệm vụ làm Trưởng ban chỉ đạo, bà giúp chị Hoàng Mai, phu nhân Đại tướng Nguyễn Quyết (chủ biên), hoàn thành cuốn sử ký “Phụ nữ Nam Trung Bộ” (Nhà xuất bản Đà Nẵng-1999), một công trình khoa học quí giá. Một lần nữa, bà lại hết sức bất ngờ khi Nhà xuất bản Phụ nữ năm 2000, đã chọn bà là một trong 10 nhà văn nữ tiêu biểu nửa đầu thế kỷ 20.
Từ một cô gái sông Trà quê mùa, mù chữ, bà đã phấn đấu vươn lên thành một cán bộ lãnh đạo ưu tú, một trí thức cách mạng giàu uy tín, một người mẹ bao dung, nhân hậu tuyệt vời, một tấm gương sáng ngời của phụ nữ Việt Nam thế hệ Hồ Chí Minh: Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Cuộc đời bà thật giản dị nhưng lớn lao quá! Còn nhiều chuyện kỳ thú không thể viết hết. May mắn được trò chuyện với bà và chiêm nghiệm những bài học ở bà, tôi bỗng liên tưởng đến cốt cách của loài hoa và loài người. Hoa không biết nói. Nó không bao giờ biết nhờ cậy nắng gió để lan tỏa sắc hương, chỉ biết lặng lẽ làm đẹp cho đời để đền đáp công ơn bàn tay người vun trồng, chăm bón nó. Đó là cốt cách loài hoa. Còn vẻ đẹp trên tất cả những vẻ đẹp ở bà, theo tôi, đó là nhân cách; nhân cách là cốt lõi của loài người. Triết học phương Đông và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đã cho ta hiểu biết sâu sắc rằng: Xét cho cùng, thì không phải là cấp bậc, địa vị, danh vọng, tiền bạc, vinh hoa, phú quý, mà chính là nhân cách mới để lại ấn tượng sâu đậm, đẹp đẽ nhất về một con người. Bà đã rung động tận nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn tôi bởi một nhân cách cao đẹp, phi thường, nhân cách của một con người trọn đời vì nước vì dân trên hết; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh cao cả cho lý tưởng cách mạng; không hề tơ hào, đòi hỏi đặc ân cho cá nhân; tự lực tự cường đi lên bằng đôi tay, trí óc và trái tim mình; sống vì hạnh phúc của mọi người và lấy hạnh phúc của mọi người làm nguồn hạnh phúc của chính mình; luôn gương mẫu, đi đầu trong mọi việc làm có ích, dù là nhỏ nhất; lối sống của một nhân cách như vậy thật giản dị, đẹp đẽ và thanh cao biết bao!
Cô gái sông Trà yêu quí của chúng tôi-cụ bà Phạm Thị Trinh là một người như thế.
HỒ NGỌC SƠN