QĐND Online - Một buổi sáng mùa hè, nhân dịp kỷ niệm 14 năm ngày ký Hiệp định Giơnevơ (20-7-1968) chúng tôi gồm những anh hùng, chiến sỹ quyết thắng, chiến sỹ thi đua, dũng sỹ diệt Mỹ ở miền Nam được tới Phủ Chủ tich gặp Bác. Người tiếp chúng tôi ở vườn hoa trong Phủ Chủ tịch. Ngồi chờ ít phút ở hai bên 2 dãy bàn, từ phía nhà sàn chúng tôi thấy Bác xuất hiện, cùng đi với Người có đồng chí Phạm Văn Đồng. Tất cả chúng tôi hướng về Bác, đứng dậy vỗ tay chào đón Người với niềm vui khó tả. Bác vẫy tay và nói: “ Các cháu ngồi xuống!”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp đoàn đại biểu anh hùng, chiến sỹ thi đua và dũng sỹ diệt Mỹ của các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam ra thăm miền Bắc tại vườn hoa Phủ Chủ tịch, ngày 20-7-1968. Ảnh TL.

Thượng tướng Phạm Thanh Ngân nhớ lại những giây phút không thể quên ấy:
- Bác hỏi: “ Các cháu có khỏe không, ở miền Nam mới ra, khí hậu miền Bắc nóng nực, có chịu được không?” Rồi Bác bảo chúng tôi uống nước và ăn kẹo.
Đồng chí Vũ Kỳ- Thư ký của Bác giới thiệu ngắn gọn thành phần đoàn. Sau khi mấy đồng chí báo cáo thành tích chiến đấu của mình với Bác, Thủ tướng  Phạm Văn Đồng nói: Bây giờ đến cháu Phạm Thanh Ngân giới thiệu không quân cho Bác nghe. Tôi đứng lên, xen lẫn niềm vui và xúc động. Bác hỏi:
-  Cháu Ngân có vợ chưa?
- Dạ thưa Bác: Cháu có vợ rồi ạ.
- Bác hỏi: Cháu có mấy con rồi?
- Tôi hơi bối rối, lúc đó chưa kịp trả lời thì Bác cười nói: Có tám con rồi phải không?
Tôi rất xúc động, Bác- một lãnh tụ bận biết bao nhiêu việc của đất nước nhưng vẫn quan tâm tới các chiến sỹ ở mặt trận, đặc biệt quan tâm đến cả gia đình mình. Bác nói 8 con, ý nói tôi bắn rơi 8 máy bay, vì Bác đã biết thành tích của tôi.
Tôi báo cáo với Bác là bộ đội Không quân đã thực hiện đúng lời Bác dạy- mệnh lệnh của Bác giao cho “mở mặt trận trên không thắng lợi”. Hai, ba năm vừa rồi chiến đấu rất ác liệt, không quân Việt Nam đã trưởng thành một bước lớn nhưng không ít tổn thất vì phải đương đầu với không quân nhà nghề có trình độ, được huấn luyện đào tạo rất bài bản, có máy bay hiện đại nhiều gấp bội lần so với không quân ta.
Bác lại hỏi: Cháu bay loại máy bay nào?
- Thưa Bác, cháu bay máy bay Mig- 17 và Mig- 21 ạ.
Chiến đấu bằng máy bay nào?
- Thưa Bác, cháu chiến chủ yếu loại Mig- 21.
- Thế Mig- 21 nó cồng kềnh lắm phải không?
- Mig-21 lớn hơn Mig-17 và được trang bị hiện đại hơn,  tốc độ lớn gấp hai lần, được trang bị vũ khí tên lửa, bay ở nhiều độ cao khác nhau và tính năng rất tốt.
Bác bảo tôi kể một vài trận đánh cho Bác nghe. Tôi lần lượt kể, trước hết về trận không chiến đầu tiên của mình ngày 9-10-1966. Biên đội có 2 người gặp 12 chiếc F4 bay ở vùng trời Hòa Bình, cháu là biên đội trưởng nhưng bị rơi vào thế bị động, không bắn rơi máy bay địch. Đồng chí số 2 bắn rơi máy bay địch nhưng cũng bị địch bắn rơi. Trận đó cháu ân hận lắm nên quyết tâm về nghiên cứu bằng mọi cách để trận sau quyết bắn rơi máy bay địch.
Tôi kể lại hai trận đánh ngày 18 và 20-11-1967 cho Bác nghe…chỉ trong hai ngày cháu và đồng chí Nguyễn Văn Cốc đã bắn rơi 5 máy bay địch, nhưng cháu chỉ nhận bắn rơi 4 chiếc vì 1 chiếc không quan sát được.
Có thể nói, với quyết tâm chiến đấu cao và áp dụng cách đánh thích hợp đã đưa hỉệu suất chiến đấu lên rất cao.
Bác hỏi luôn: Ở vùng trời nào?
Tôi trả lời: Thưa Bác, ở vùng trời Phú Thọ và Yên Bái ạ. Thông thường địch bay từ hướng Thái Lan sang thường qua Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang rồi vòng theo dãy núi Tam Đảo vào đánh phá Hà Nội.
Tôi báo cáo  với Bác, khi còn học ở Liên Xô hay ở Trung Quốc các bạn dạy thường phải lấy nhiều để chọi nhiều mới thắng được. Nhưng nếu đánh như không quân các nước bạn thì ta không có đủ lực lượng để chiến đấu nên chúng cháu phải áp dụng cách đánh truyền thống của ông cha, cũng như của quân đội ta trong những năm kháng chiến chống Pháp là lấy ít đánh nhiều, lấy tinh thần dũng cảm, mưu trí, sáng tạo để đánh địch. Do đó không quân ta dù còn non trẻ nhưng càng đánh càng mạnh, càng trưởng thành. Tôi báo cáo Bác: Không quân chúng cháu có một quyết tâm cao: hiệp đồng chặt chẽ với bộ đội cao xạ, tên lửa cùng lực lượng Phòng không nhân dân, quyết tâm ngặn chặn không cho địch vào Hà Nội. Vì lúc đó nhiệm vụ số một là làm thế nào để địch không thể đánh vào thủ đô. Bác cười to và bảo: “Thế mà nó vẫn vào được đấy!”.
Sau cùng tôi có nói: “Không quân chúng cháu có nguyện vọng rất lớn là nhanh chóng giải phóng miền Nam để đưa Bác vào thăm đồng bào miền Nam, lúc đó  cháu xin phép Bác được bay hộ tống Bác bằng máy bay Mig- 21”. Lần này Bác và Bác Phạm Văn Đồng lại cười rất to, Bác nói: “ Ừ! Cái đó đúng đấy, nhưng trước hết phải đánh thắng đã”. Tất cả mọi người rất vui. Buổi sáng hôm đó tôi rất vui vì được gặp Bác, tôi cảm thấy mình được tăng thêm sức mạnh để thực hiện nhiệm vụ cao cả mà Đảng và Bác giao cho.
Các phi công Việt Nam vinh dự được Bác đặc biệt quan tâm. Bác dành cho phi công phần thưởng quý, đó là khi mỗi phi công bắn rơi 1 máy bay thì Bác quyết định tặng 1 huy hiệu của Người. Bản thân tôi bắn rơi 8 máy bay được Bác tặng 8  huy hiệu Bác Hồ. Ngoài ra, tôi và một số phi công như đồng chí Nguyễn Hồng Nhị được Bác đặc biệt ưu ái tặng riêng chiếc đồng hồ đeo tay.
Từ cuối năm 1964- 1969 tôi có may mắn lớn là năm nào cũng được gặp Bác Hồ. Có lần gặp Bác đến doanh trại thăm Trung đoàn Không quân Sao Đỏ, lần đó Bác giao nhiệm vụ cho không quân mở mặt trận trên không thắng lợi. Có lần gặp Bác ngay trên tuyến trực ban chiến đấu, Bác đến tận biên đội trực chiến bắt tay thăm hỏi từng đồng chí trực ban. Có khi chúng tôi đang ngồi trên bãi cỏ gần đài chỉ huy ở sân bay Nội Bài, Người thăm hỏi và cho quà nhân dịp năm mới…lần nào cũng để lại cho tôi những ấn tượng hết sức sâu sắc.
Những lần được gặp Bác, được Bác, được Đảng và quân đội giáo dục và rèn luyện, tôi đã trưởng thành. Tôi tự hào vì luôn giữ vững phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ suốt 50 năm trong quân ngũ. Tôi thấy mình đã có may mắn được sinh ra trong thời đại Hồ Chí Minh. Đến bây giờ dù đã nghỉ hưu tôi vẫn luôn làm theo lời Bác dặn, tiếp tục làm tốt nhiệm vụ của người đảng viên, không ngừng học tập tấm gương đạo đức Bác Hồ và luôn xứng đáng với những phần thưởng cao quý mà Bác đã dành tặng cho tôi. 
Thượng tướng Phạm Thanh Ngân kể 
Phí Hồng Vân
ghi