QĐND - Rời Mèo Vạc về Đồng Văn, ngồi sau lưng anh xe ôm người Mông, tôi vượt Mã Pì Lèng trong một sáng mùa hè mưa rả rích. Thỉnh thoảng, trên cung đường núi hiểm trở ấy, tôi lại gặp một vài người phụ nữ Mông. Lòe xòe váy áo. Rực rỡ trong cái ảm đạm của núi rừng, người phụ nữ Mông cứ khiến tôi liên tưởng về những câu thơ tươi tắn, đột ngột hiện lên giữa núi và đá sắc nhọn lởm chởm hay có khi, thấp thoáng ẩn hiện trong các nương ngô của vùng cao Hà Giang. Đồng bào Mông trắng là dân tộc đông nhất ở Mèo Vạc và Đồng Văn, bên cạnh đó còn có người Dao, Tày, Pu Péo, Lô Lô…

Tới Đồng Văn, vào khu phố cổ nổi tiếng, nơi mà cách đây hơn trăm năm, người Pháp đã có ý định xây dựng thành một trung tâm nơi miền núi cao phía cực Bắc Tổ quốc hòng dễ bề quản lý những sắc tộc kiêu hùng miền núi đá. Các nếp nhà nơi đây phần lớn là nhà của người Tày, xen ghép kiến trúc Trung Hoa, tạo nên nét giao thoa văn hóa độc đáo của các sắc người vùng cao. Những nếp nhà Tày cổ xưa vẫn còn lưu giữ được dấu tích văn hóa trăm năm của dân tộc mình. Nhìn người phụ nữ Tày với trang phục truyền thống áo dài một sắc (thường đen hoặc xanh), ôm lấy cơ thể, điểm xuyến chiếc kiềng cổ bạc làm cho tâm hồn tôi chìm trong một cái đẹp nền nã, tinh tế, hơi vương chút buồn mà sang của người Tày. Cảm giác ấy sẽ lên đến cực độ khi đó lại là một nhan sắc Tày, ôm cây đàn tính, người cũng như đàn, gầy-cao một dải tỳ-bà, dìu dặt điệu then chậm buồn đặc trưng của người Tày. Một cái đẹp u nhã ở đời. Có điều gì gợi nỗi nhớ về dòng sông Huế, nơi có người ca nương cũng áo một sắc tím, hát điệu nam ai: Chậm, buồn, ai oán. Cái mỹ cảm đó chỉ có thể tỏ lộ khi trong đời ta có cơ may diện kiến với những dân tộc mà thẩm mỹ học đã phát triển đến những chỗ vi tế. Một dân tộc hẳn phải đã có những lúc hưng thịnh trong dòng lịch sử.

Một góc chợ Đồng Văn (Hà Giang). Ảnh: Xuân An

Ngay giữa khu phố cổ Đồng Văn, đối diện với khu chợ mái ngói âm dương rêu phủ thời gian, thật bất ngờ, hiện ra một quán cà phê độc đáo. Khác với nhiều người, cho rằng, quán cà phê phố cổ này (thuê lại từ ông Lương Mãn Tuyên - hậu duệ một dòng tộc người Tày có thế lực khi xưa) là nhà trình tường, thực ra không phải vậy. Ngồi “hầu chuyện” cô Hùng Bích Phượng, một phụ nữ trung niên phúc hậu, cũng là trí thức người Tày, nhà cô ở cũng là ngôi nhà cổ gần 200 tuổi, cái hiểu của tôi mới vỡ ra nhiều điều. Bên chén rượu ngô của người Mông trong phiên chợ chủ nhật, qua lời tâm sự, cô Phượng cho tôi biết rằng, tường quán cà phê phố cổ được xây bằng gạch non, không qua nung, làm từ đất sét trộn trấu rơm, để trâu quần thật nhuyễn, sau đó đổ khuôn, cắt thành từng viên gạch dùng để xây. Một kỹ thuật xây dựng độc đáo của người Tày, thích hợp với khí hậu khắc nghiệt miền núi. Nhìn ngôi nhà vững chắc qua gần trăm năm, thế mới biết, cái tri thức bản địa mới đáng vị nể làm sao.

Ngồi trong quán cà phê, ngắm phố cổ một đêm mưa, ngọn đèn vàng gợi nhớ cái vàng son chốn vùng cao trăm năm trước. Hẳn là cách đây ngót thế kỷ, khu phố này phải là hoa lệ nhất của các sắc người vùng cao. Cứ dự phiên chợ chủ nhật hằng tuần ở đây, xem đồng bào Mông, Tày tấp nập xuống chợ, váy áo xập xòe trên phố với những bước chân cao, cái di truyền của những bàn chân leo núi, với men rượu cay nồng bên nồi thắng cố nghi ngút khói thì đủ biết khu chợ ngay trước mặt quán cà phê phố cổ này hẳn phải là niềm mơ ước của những con người sống nơi đỉnh núi đá tai mèo kia. Thế nhưng, còn một điều ấn tượng đặc biệt khi nói về cảnh đi chợ phiên của người miền núi, đó là cảnh người Mông xuống chợ. Dân tộc Mông có thói quen cư trú ở những nơi cao nhất, hẳn là vì chậm chân khi di cư vào Việt Nam nên phải lên ở những chỗ mà đá tai mèo bất cứ khi nào cũng có thể cứa đứt bàn chân. Người Mông đi chợ phiên, từ tối trời đã bắt đầu, mỗi người tay cầm một ngọn đèn, từ từ di chuyển trên núi xuống chợ (vốn nằm nơi các thung lũng vùng cao). Hồi còn ở Mèo Vạc, buổi đêm tôi thức giấc, nhìn ra ngoài núi, thấy các đốm sáng cứ lừ lừ di chuyển xuống, có khi là cả một đám lớn lửa sáng cùng trôi dần đều. Tôi sợ lắm! Mới đầu, tưởng mình hoa mắt, sau đó là sợ: Hay là ma mị gì đây?! Cái thâm u của núi rừng khiến cho cái sợ vì thế càng lên ngôi. Hoảng lên, chạy hỏi người nhà, họ cười mà bảo: Ấy là người Mông thắp đèn đi chợ phiên. Thế mới biết, đời người trăm sự khổ. Cái sợ qua đi, tĩnh lặng lại chút thời gian ngắm cảnh người Mông xuống núi chợ phiên buổi tinh sương, thì mới thấy thật ngoạn mục. Những đốm sáng biết di chuyển như những con chim lửa nhỏ nhoi, lúc lắc bay lừ lừ dọc theo các vách núi mù sương.

Nhiều lúc tôi thường hỏi, nếu không có những con người vùng cao kia cư trú thì thiên nhiên già cỗi Hà Giang vơi đi nửa cái đẹp. Chính những sắc người vùng cao, chủ nhân lâu đời của cao nguyên đá Đồng Văn (được UNESCO công nhận là công viên địa chất toàn cầu) đã tạo nên những cảnh sắc tuyệt đẹp nơi đây. Những nương ngô bạt ngàn, là kết quả của quá trình hàng thế kỷ gánh đất đổ vào hốc đá tai mèo để tạo nương rẫy, quả thật không thể không làm ta khâm phục. Những khu ruộng bậc thang trải dài tít tắp, gợi nhớ công lao khổ canh tác lúa nước của người vùng cao. Thật đáng khâm phục! Những khu ruộng bậc thang như là những tầng bậc dẫn mãi lên các cổng trời xinh đẹp.

MẠNH TIẾN