QĐND Online - Chiến tranh đã lùi xa hơn 30 năm, nhưng vết tích chiến tranh vẫn còn âm ỉ đeo đuổi, bào mòn sự sống những nạn nhân chất độc da cam đi-ô-xin. Họ là những người nghèo nhất trong những người nghèo của xã hội. Ở mọi khoảnh khắc của cuộc đời, họ oằn mình trong đau đớn tuyệt vọng, mỗi lần nhắc đến nỗi đau chồng chất ấy, tội ác chiến tranh do Mỹ gây ra lại bị phơi bày.

Những mảnh đời da cam

Theo địa chỉ của hội nạn nhân chất độc da cam đi-ô-xin thành phố Vũng Tàu, tôi đến nhà em Dương Thị Thu Hương ở số nhà 71 phố Hàn Thuyên, phường Rạch Dừa. Căn nhà cũ xập xệ dưới cái nắng hầm hập như thiêu như đốt, anh Dương Đức Duy (bố Hương) đang chẻ củi giữa nắng, chị Nguyễn Thị Vòng (mẹ Hương) đon đả mở cổng mời tôi vào nhà. Chưa kịp ngồi xuống ghế, đã nghe tiếng uỳnh uỵch rồi la toáng, rên ư ử phía sau nhà. Vội chạy xuống bếp thì ra em Hương trườn trên tấm phản trượt té xuống đất. Mắt trợn trừng, miệng sùi bọt mép, chân tay múa loạn xạ. Chị Vòng bế con đặt vào ghế và đẩy ra phòng khách.

Em Dương Thị Thu Hương ở số nhà 71 phố Hàn Thuyên, phường Rạch Dừa

Mời tôi ly nước trắng, chị Vòng kể: “Năm 1981, tôi sinh cháu. Vợ chồng mừng lắm. Nó chỉ 2,5kg nhưng đầy đủ chân tay mặt mũi. Thế nhưng niềm vui ấy chỉ tồn tại đến ngày thứ 13 thì vụt tắt. Tự nhiên, người cháu đỏ như quả gấc và đi cầu phân trắng như nước vo gạo, ăn gì đi nấy. Vợ chồng tôi sợ quá vội đưa cháu đi bệnh viên Nhi đồng 1 Sài Gòn. Khi ấy bác sĩ nói nó đã chết khai tử (tức là chết lâm sàng). Bệnh viện trả về nói gia đình lo hậu sự chôn cất thì bỗng dưng nó sống lại. Cả nhà mừng lắm. Vợ chồng động viên nhau “con mình bé nhỏ, chậm lớn là thường”. Nhưng không phải thế chú ơi. Từ lúc đẻ nó đến bây giờ, nó oặt ẹo như rễ khoai, đi vệ sinh không kiểm soát được. Theo thời gian, răng cháu bị mòn không nhai được cơm. Chủ yếu là uống sữa và ăn cháo loãng. Tất cả vệ sinh, ăn uống đều theo cuộc sống thực vật”.

Chị Vòng khóc. Đã bao lần chị khóc khi có người đến thăm. Những giọt nước mắt vỡ oà trên gương mặt người đàn bà khắc khổ. Anh Dương Đức Duy cũng khóc theo. Anh bảo: “Tất cả là do tôi. Tôi bị nhiễm chất độc da cam nên mới đẻ ra đứa con tật nguyền như thế”. Rồi anh lần lượt kể cho tôi nghe về đời lính của anh. Năm 1965, như bao trai làng khác, Duy xung phong lên đường nhập ngũ. Đầu năm 1966, anh đi chiến trường B, rồi chiến đấu trên các chiến trường miền Đông, miền Tây Nam bộ. Đã bao lần đồng đội anh hành quân xuyên rừng tận mắt chứng kiến cả vạt rừng trụi lá. Đại đội mắc võng ngủ giữa rừng Trường Sơn. Sáng ra tóc người nào người nấy đỏ hoe, trên đầu tăng võng đọng nước trắng đục như nước vo gạo. Anh em hò nhau xuống suối tắm, gội đầu, có người đã uống luôn cả nước suối mà không hề biết dòng nước ấy đã bị Mỹ rải chất độc nhằm tiêu diệt nguồn nước sinh hoạt của bộ đội. “Chất độc ấy ngấm sâu vào cơ thể tôi chưa đủ, mà còn gieo rắc lên đứa con đau khổ tội nghiệp này”. Anh khóc, những giọt nước mắt người cha từ bao ngày nén chặt trong lòng nay mới có dịp trào dâng. “Thôi thì đành chấp nhận. Biết là đau đớn tột cùng, nhưng còn biết bao đứa trẻ khác cũng giống như con tôi”, anh Duy nói.

Trường hợp khác là hai anh em sinh đôi là Bùi Văn Tiến và Bùi Văn Tân ở xã Đá Bạc, huyện Châu Đức với khuôn mặt dị dạng “tai mũi khác thường”. Khi mới sinh ra, các em như hai cục bột, dễ thương như bao đứa trẻ khác. Nhưng chỉ hơn một tuần tuổi, tai các em tự nhiên mọc mụn rồi cuộn tròn như cục thịt. Cùng lớn lên với “cái tai Bát Giới” là cái mũi dị thường, chân tay khòng khoèo, 16 tuổi mà các em như trẻ lên 5. Khi biết con bị nhiễm chất độc da cam, người bố đi biệt tích bỏ lại ba mẹ con vật vã giữa dòng đời. Cuộc sống cháo rau cứ lay lắt qua ngày. Các em biết thương mẹ, một buổi đến lớp học tình thương để tập nói, tập viết, một buổi đi chăn bò thuê cho người hàng xóm kiếm 5 ngàn đồng giúp mẹ mua gạo.

Em Hồ Văn Hoà ở Hoà Long nhiễm chất độc đi-ô-xin nặng

Một trường hợp khác, em Hồ Văn Hoà ở Hoà Long, thị xã Bà Rịa, là trường hợp nhiễm chất độc đi-ô-xin nặng. Nỗi đau hậu chiến để lại cho em một thân hình dị dạng. Bụng dài hơn người, chân mọc đuôi như đuôi cá. Nếu che phần thân thể từ ngực trở xuống, thì Hoà là một chàng trai khôi ngô tuấn tú. Hàng ngày em phải gồng mình chịu đau đớn hành hạ bởi những cơn đau đầu. Đã 18 năm, em làm bạn với chiếc giường ọp ẹp và những xấp hình cắt ra từ báo cũ dán trên liếp dưới mái nhà hầm hập rách bươm. Do nằm lâu ngày, những chỗ thịt tiếp xúc với chiếu bị hoại tử chảy mủ hôi thối. Mẹ em phải thay băng hằng ngày. Mỗi lần có ai đến thăm, em chống hai tay gồng mình trườn về phía trước. Ai cho em cuốn sách, tập thơ, mắt em sáng ngời mừng rỡ. Em không biết đi, không ngồi được, thế giới nhỏ bé của em là những cuốn sách nhi đồng, bài thơ cũ các bạn cho. Ước mơ của em là có thêm sách truyện, thơ để đọc và kể cho các em hàng xóm nghe. Những đưa trẻ hàng xóm rất thích nghe anh Hoà đọc thơ. Chúng gọi Hoà là nhà thơ tật nguyền.

Vòng tay cộng đồng

Những nạn nhân chất độc da cam ra sao, họ sẽ sống thế nào nếu không có vòng tay dang rộng của cộng đồng và xã hội? Ông Nguyễn Văn Nhân, Chủ tịch Hội nạn nhân da cam đi-ô-xin tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cho biết: “Toàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có 6.618 người nhiễm chất độc đi-ô-xin, trong đó có 2.761 người nhiễm nặng. Nhiều người không đủ khả năng lao động, nhiều gia đình có ba thế hệ nhiễm, rất thương tâm. Năm 2008, Hội nạn nhân chất độc da cam đi-ô-xin tỉnh đã giúp đỡ hơn một ngàn gia đình, xây 14 căn nhà tình thương, hỗ trợ hơn 2 tỷ đồng góp phần xoa dịu đau đớn, chia sẻ thiếu thốn của họ. Có rất nhiều đơn vị hỗ trợ thường xuyên hiệu quả như Liên doanh xí nghiệp VietsoPetro, Công ty cao su Bà Rịa. Ngay trong đêm nhạc “chất độc da cam và vòng tay nhân ái” vừa qua, Hội đã tiếp nhận được 4,6 tỷ đồng từ các đơn vị quân đội Viettel, Đoàn M71, các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm, các mạnh thường quân trong và ngoài tỉnh. Đó là ngọn lửa vật chất giúp các nạn nhân chất độc da cam sống đỡ khó khăn hơn. Chúng tôi mong có nhiều nhà hảo tâm, các mạnh thường quân chung tay, góp sức xoa dịu và cùng nhau thắp lên những ngọn lửa bằng tất cả tình yêu thương để những nỗi đau vợi bớt, để những cảnh nghèo được sẻ chia, những nạn nhân da cam được hoà nhập với cộng xã hội”.

Bài và ảnh: Mai Thắng