QĐND Online - Mường So vẫn nắng, gió như thủa người mới về đây lập bản, con người vẫn hồn hậu như buổi đón đồng bào miền xuôi lên đây sinh kế, dựng thôn lập ấp. Mảnh đất ấp ủ bao huyền tích và vô số thăng trầm ấy hôm nay đã đổi thay như lột xác. Những tàn phá của chiến tranh, tàn tích của sự đô hộ, cát cứ thời phong kiến là đói nghèo, lạc hậu và những đận khốn khó chỉ còn là… di tích. Nay Mường So đã đổi khác rất nhiều mà người có công lớn cho sự tiến bước của nơi này chẳng ai khác chính là người phụ nữ ấy. Bà đã gắn bó cả cuộc đời mình cho mảnh đất này với một niềm đau đáu làm sao cho “quê hương” của những điệu xoè, làn tính được như lời Bác Hồ sinh thời hằng mong ước. Bà là Đèo Thị Ly – nguyên cán bộ biệt phái của trung ương cắm ở huyện Phong Thổ, Bí thư Đảng uỷ xã Mường So.
Sinh ra 1947 ở Mường So trong thời kỳ cách mạng của đất nước cực kỳ sôi nổi với những phong trào làm thay đổi chính trị của đất nước, nhất là chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử đã tạo cho cô bé Đèo Thị Ly ngày đó đã sớm “thấm” trong mình cái không khí cách mạng ấy. Sự ngưỡng vọng về Bác Hồ và những quan điểm, đường lối của Đảng, Bác đã khiến cho cuộc đời của Đèo Thị Ly đi theo một hướng khác, không giống những người con gái dân tộc Thái cùng trang lứa.
Học dở lớp 6, hoàn cảnh của một gia đình nghèo không thể nuôi dưỡng được ước mơ đèn sách cho cô bé Đèo Thị Ly. Thủa ấy, nhiều người cứ nghĩ rằng rồi đây người thiếu nữ họ Đèo ấy cũng sẽ yên bề gia thất với một anh chồng và mãi mãi chôn vùi tên tuổi ở đất này như bao kiếp người đã trải qua cõi người thanh thản ấy. Thế nhưng Đèo Thị Ly không phải vậy, dù chưa được gặp Bác Hồ, dù chưa một lần được giáo dục chính trị nhưng khi ấy trong Ly vẫn đinh ninh lời Bác rằng phải làm sao cho nước mạnh, dân giàu. Tích cực tham gia các phong trào thanh niên, có uy tín, có trình độ, đoàn viên Đèo Thị Ly được bầu giữ chức Bí thư xã đoàn, rồi sau đó làm Phó Chủ nhiệm HTX nông nghiệp Thẩm Bú (Mường So) – năm 1963. Đến năm 1968, dù còn rất trẻ nhưng khi ấy Đèo Thị Ly cũng đã tỏ ra là người có tố chất lãnh đạo nên được bầu vào chức danh Chủ tịch Hội phụ nữ xã; cuối năm đó lại được cất nhắc lên làm Phó chủ tịch, Trưởng Công an xã. Từ năm 1981 đến năm 2004 bà liên tục giữ chức Bí thư Đảng uỷ xã Mường So…
 |
| Bà Ly với những huân chương cao quý mà Nhà nước trao tặng. |
Suốt thời gian làm cách mạng, làm cán bộ của bà, người ta chưa phải kêu ca điều gì về phẩm chất đạo đức, về năng lực trình độ, cũng không thấy có cuộc thanh tra, kiểm tra nào về tư cách Đảng viên hay năng lực lãnh đạo của bà. Còn nhớ những ngày làm Phó Chủ nhiệm Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp Thẩm Bú, lúc đó kinh tế đất nước khó khăn nên nơi đây cũng không thoát khỏi cái “vòng kim cô” nghèo đói. Nhiều người thấy bà suốt ngày ở trụ sở, ngoài cánh đồng mà chẳng thấy mấy khi ở nhà chăm lo cho gia đình, lại có khi thấy chồng bà nửa đêm cõng con, đốt đuốc đi đón, thấy tội, thấy thương nên có người bảo bà: Tội gì mà ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng! Bà cười! Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp thì lúa, khoai không thiếu nhưng gia đình bà vẫn ngày ngày lo nỗi thiếu ăn. Có người xúi dại: cũng chẳng phải to tát gì, cứ đem tạm một ít về dùng, khi đến mùa lại trả, nhưng bà nhất quyết không tơ hào dù chỉ một dúm muối, củ khoai.
Bây giờ bà tự hào nhớ lại: “Đói thì đói thật, nghèo cũng đã nghèo rồi nhưng tôi nghe người ta kể rằng Bác Hồ cũng còn mỗi ngày để dành một nắm gạo để cứu đói dân nghèo thì mình làm như vậy là có lỗi với Bác, có lỗi với tập thể. Cứ nghĩ đến cảnh Bác Hồ – người đứng đầu một nước còn mạng lại chiếc tất hỏng để đi thì tôi thấy khó khăn của mình có thấm vào đâu. Vậy là tôi có thêm nghị lực tiếp tục công tác chẳng kể tới phụ cấp mười mấy đồng khi làm chủ tịch hội Phụ nữ hay chút ít lương thực từ “chân” Phó chủ nhiệm Hợp tác xã”.
22 năm liên tục làm Bí thư chi bộ, kim chỉ nam duy nhất để bà hoàn thành tốt nhiệm vụ là lời dạy của Bác Hồ: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu – Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Tất cả mọi việc đều phải nghĩ về người dân, làm sao cho họ có cơm ăn, áo mặc, làm sao để cuộc sống của họ tốt hơn đó là điều mà Bác hằng ao ước. “Bác Hồ đã vì cả dân tộc mà hiến dâng cả cuộc đời, đến khi mất đi Bác cũng chẳng mảy may mong muốn một điều gì riêng tư. Mình là con, cháu Bác Hồ nên những điều Bác mong muốn thì phải thực hiện bằng được, nhất là mong muốn ấy lại là mong muốn cho một đất nước tốt đẹp hơn” – bà Ly tâm sự.
Lịch sử Mường So sẽ mãi ghi nhớ bà Đèo Thị Ly như một người có công hồi sinh cho vùng đất này.
Năm 1979, sau chiến tranh biên giới kết thúc, Mường So gần như đổ nát hoàn toàn. Dân di tản, cơ sở vật chất bị tàn phá, bản làng tiêu điều, ruộng đồng sơ xác. Thực hiện sự chỉ đạo của tỉnh Lai Châu (cũ) về việc khắc phục hậu quả chiến tranh, bà Ly đã lặn lội, về tận Thái Bình đón 35 hộ dân từ đây lên lập bản, khai phá vùng đất mới. Bây giờ dù đã hơn 30 năm nhưng bà vẫn nhớ như in ngày bà về đón đồng bào, hay lúc bà con mới lên lập bản: “Ban đầu bà con cứ nghĩ về nơi rừng thiêng nước độc, bị tàn phá bởi chiến tranh, đất đai chẳng có, chính quyền yếu kém… nên cũng hoang mang lắm, nhưng khi thấy tôi về, tôi nói thật về tình hình của Mường So, về chủ trương của Đảng bà con cũng tin mà rằng: Chị là một người con gái lại lặn lội về tận đây, chúng tôi tin chị sẽ không bỏ mặc chúng tôi đâu. Buổi đầu lập nghiệp thật chẳng gì khó bằng, nơi ăn, nơi ở, đất sản xuất và trăm thứ đổ về. Đồng bào bản địa và người dân mới đến chưa hiểu nhau, còn nhiều nỗi e dè. Thực hiện lời nói của Bác, tất cả các dân tộc đều là anh em, tôi đến từng bản, vận động đồng bào bản địa cùng nhường cơm sẻ áo, giúp đất, giúp nhà để bà con mới lên yên tâm lập nghiệp… mới đó đã 30 năm. 35 hộ ngày xưa bây giờ đã thành hơn 100 hộ rồi, dù khó khăn đến mấy họ cũng vẫn bám trụ ở đất này, bây giờ tất cả đều khấm khá hết rồi, họ cũng quý mình lắm!”
Bây giờ, dù đã nghỉ hưu nhưng bà vẫn được anh em, đồng chí cử giữ các chức vụ như chủ nhiệm Câu lạc bộ Người cao tuổi, ban thanh tra Hội người cao tuổi của xã. Bà giãi bày: “Nhiều khi cũng muốn có chút thời gian mà vui vầy con cháu nhưng anh em họ tin tưởng, bầu mình thì mình cố hết sức thôi. Có lúc cũng muốn có thời gian mà nghỉ ngơi nhưng lại nhớ lời Bác dặn Tuổi cao phải nêu gương sáng nên tôi lại có nghị lực làm tiếp…”. Trong câu chuyện của bà tôi thấy có nhiều điều bà suy nghĩ rất sâu sắc về các quan điểm, suy nghĩ, lời nói hay hành động của Bác. Tôi hỏi: “Bà đã được gặp Bác Hồ mấy lần rồi?” – “Tôi chưa hề được gặp Bác lúc Bác còn sống! Nhưng những quan điểm, lời dạy, tấm gương đạo đức cả Bác thì lúc nào tôi cũng phấn đấu, làm theo vì với tôi Bác là người thầy, người cha, người đồng chí vĩ đại. Còn sức thì tôi còn phấn đấu sống gương mẫu để con cháu noi theo vì Bác dạy một người tốt thì xã hội tốt thêm một phần mà”.
Trở lại với cuộc sống đời thường, gánh nặng chính trị đã phần nào vơi bớt, những tưởng bà sẽ chọn một cuộc sống an nhàn với cháu con vui vẻ, nhưng dường như chẳng lúc nào bà ngơi tay. Một vườn rau tươi tốt, một chuồng nung núc những gà, ngan, vịt, lò nấu rượu lúc nào cũng rực lửa… Tôi thắc mắc tại sao bà tham công tiếc việc như vậy – bà cười: lời Bác dạy tôi vẫn ghi nhớ suốt cuộc đời, bây giờ thì phải cần và kiệm…”.
Bài, ảnh: Khánh Kiên