Tiếng hát át tiếng bom

“Đêm đã về khuya sương rơi ướt áo, tiếng hát em vẫn vọng núi rừng...”, mỗi khi nghe giai điệu bài ca “Cô gái mở đường”, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn vận tải 232 - Cục Hậu cần Quân khu 5 lại nhớ ngay đến chị, Đại đội phó Đại đội 1 Phạm Thị Sen - cô gái “chưa thấy mặt người đã nghe tiếng hát”.

Sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo ở Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng, năm 1966, vừa bước sang tuổi 17, đáp lời tiền tuyến gọi, Phạm Thị Sen thoát ly gia đình gia nhập lực lượng thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước. Tính tình cương trực, thẳng thắn, hay quan tâm giúp đỡ mọi người, phân công việc gì cũng không từ nan, chị được đề cử làm tiểu đội trưởng phụ trách 15 cô gái tuổi từ 16 đến 20. Chị Sen bồi hồi nhớ lại: “Chúng mình đều con nhà lao động, đang tuổi “bẻ gẫy sừng trâu”, đi cắt tranh, gùi hàng, bạt ta luy mở đường... việc gì cũng phăm phăm. Hiềm một nỗi, lần đầu xa nhà xa quê, đi làm thì chớ đêm về lại lén khóc thầm. Làm thế nào để vợi đi nỗi buồn? Để ý chị em rất thích nghe hát, mình sưu tầm những ca khúc cách mạng: “Cô gái mở đường”, “Nổi lửa lên em”, “Tiếng chày trên sóc Bom Bo”, “Tiếng đàn ta-lư” v.v... Mỗi lần “biểu diễn” luôn được yêu cầu hát đi hát lại. Riết rồi thành quen. Đi đâu mình cũng hát, hát lúc gùi hàng, tải thương băng đèo lội suối, hát sau cơn sốt rừng, hát trên đường hành quân, những đêm sinh hoạt đơn vị... Đến tận bây giờ mỗi lần gặp mặt cựu thanh niên xung phong, mình lại được mời lên hát”.

Ảnh chị Phạm Thị Sen chụp năm 1977 và hiện nay.

Ngày 8-3-1968, Tiểu đoàn vận tải 232 - Cục Hậu cần Quân khu 5 ra đời, chị Phạm Thị Sen được bổ nhiệm làm Đại đội phó Đại đội 1 -đơn vị biên chế hơn 100 chiến sĩ nữ, làm nhiệm vụ vận chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí, thuốc chữa bệnh ra chiến trường. “Làm cán bộ phải đầu tàu gương mẫu. Những đợt cao điểm phục vụ chiến dịch, để phát động đơn vị tăng cân tăng chuyến, bản thân mình cũng phải tăng tốc. Dù hàng nặng trĩu trên vai, mỗi chặng nghỉ mình lại ca hát véo von. Không có nhạc, chỉ có tiếng lá rừng xào xạc và tiếng suối hoà ca. Chị em lặng ngồi xung quanh. Biết chuyện này, Tiểu đoàn trưởng Phạm Thị Thao khích lệ: “Lời ca tiếng hát cũng là liều thuốc bổ giúp chị em vơi đi mệt nhọc, Sen cố gắng phát huy nhé!”.

Năm 1969, Tiểu đoàn 232 được giao thêm nhiệm vụ mới: đẩy mạnh tăng gia sản xuất để tự túc một phần lương thực. Địa điểm được chọn ở một nơi khá heo hút gần bản làng của đồng bào dân tộc Tà Côi, xã Phước Sơn, huyện Nam Giang, Quảng Nam. Nhìn đi nhìn lại, Ban chỉ huy Tiểu đoàn quyết định chọn Phạm Thị Sen phụ trách bộ phận này. Chị Sen kể lại: “Thường thì chỉ có 7-8 chị em, những ngày thu hoạch mới tăng cường lên gấp đôi. Học cách làm của người Tà Côi, chúng tôi phát rẫy, đốt nương, trọc lỗ, trỉa hạt. Hạt giống một phần do Tiểu đoàn chuyển từ đồng bằng lên, phần còn lại chúng tôi đem váy, vòng tay, muối đổi cho bà con. Nhờ làm tốt công tác dân vận, dân làng coi mấy chị em như ruột thịt, một lòng một dạ chở che. Cây trồng chủ yếu là sắn, bắp, các loại đậu. Thường thì chúng tôi dậy từ 2, 3 giờ sáng. Ngày nắng đi làm rẫy; ngày mưa làm cỏ, xới gốc. Không chỉ đương đầu với cái nắng cháy da, những cơn mưa thối đất thối trời, những con vắt, con mòng luôn khát máu người, còn phải thường xuyên cảnh giác với tàu rọ, biệt kích địch. Có lần lo chạy giặc, chị em bị lạc cả ngày trong rừng. Sau những trận sốt, ai nấy da xanh mét, tóc rụng quá nửa đầu”.

Nghị lực chống đói nghèo

Năm 1972, Tiểu đoàn 232 giải thể, chị Sen về Đại đội 3 (H2-Cục Hậu cần) rồi bị thương được ra Bắc điều dưỡng. Sau ngày giải phóng chị về lại quê hương, chuyển ngành công tác tại Xí nghiệp gạch ngói Quảng Thắng, đến 1981 nghỉ mất sức. Hai vợ chồng đều là thương binh, nuôi một đàn con thơ, cái nghèo, cái đói cứ đeo đẳng, chị dốc hết lưng vốn đi buôn gạo đường dài. Do không có kinh nghiệm, lời đâu chẳng thấy mà đồng vốn cứ hao hụt dần. Không nản chí, chị mua máy xay xát, nuôi đàn heo có lúc đến gần ba chục con. Nhưng sức thương binh không kham nổi, chị chuyển qua bán nước ngọt, giữ xe cho học sinh trường PTTH Phan Châu Trinh - Đà Nẵng. Năm 1996, anh chị bàn nhau mở quán bánh canh. Mấy năm đầu liên tục thua lỗ song chị quyết tăng sức cạnh tranh bằng giá cả và chất lượng. Bây giờ quán hàng khá đông khách, giải quyết việc làm cho 8 lao động là con em những gia đình nghèo khó ở Đà Nẵng và Quảng Nam. Ngoài các khoản chi, quán bánh canh mỗi tháng đem về trên dưới hai triệu đồng. Cùng với lương hưu của anh và chế độ thương binh của cả 2 người, tổng thu nhập mỗi tháng khoảng 6 triệu đồng. Tuy chưa giàu có song giờ đây chị Sen không còn nặng lòng nỗi lo cơm áo. Chị đã có thời gian đi thăm bạn bè, đồng đội năm xưa, tham gia tích cực vào Ban Liên lạc Tiểu đoàn 232; đóng góp vào "Nồi cháo tình thương" giúp đỡ bệnh nhân nghèo đang điều trị ở các bệnh viện tại Đà Nẵng.

Chị tâm sự: “Hiện giờ nhiều chị em hoàn cảnh còn neo lắm, nhà cửa tạm bợ, bệnh tật, vết thương cũ hành hạ, có người bị ảnh hưởng chất độc da cam... Được biết trong dịp 27-7 tới đây, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 sẽ tổ chức gặp mặt truyền thống cán bộ, chiến sĩ 232, xây nhà tình nghĩa tặng những đồng chí hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, chúng tôi mừng lắm. Mong ước thì nhiều: Mong chế độ, chính sách của Nhà nước ngày càng được cải thiện hơn, mong được ra Hà Nội vào lăng viếng Bác Hồ, năm nào cũng được gặp mặt truyền thống...”.

Đỗ Thị Ngọc Diệp