QĐND Online - Kẻ thù từng đặt cho ông biệt danh “cọp đen” khi làm đảo trưởng đảo Cồn Cỏ. Thời điểm làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 47/e270 (tỉnh Quảng Trị), ông đã cùng đồng đội bám trụ 108 ngày, đánh 89 trận với Mỹ, ngụy tại khu Đông Gio Linh, bờ Nam sông Cửa Việt, chặn đường tiếp tế của địch lên Tà Cơn, Khe Sanh, Làng Vây... diệt gọn Đại đội của Mỹ... Về với đời thường, ông lao vào sản xuất xà bông, dầu cá để ổn định kinh tế. Khi “trong” đã ấm, ông đi tìm được 125 hài cốt đồng đội ở chiến trường. Về cuối đời, ông đi học làm nghề thầy thuốc cứu giúp người nghèo. Cuộc đời ông là tấm gương mẫu mực và sáng ngời về lý tưởng, đức hy sinh, lòng dũng cảm, sự quyết đoán, dám làm, dám chịu trách nhiệm và không màng danh lợi... Ông chính là cựu chiến binh, thương bình Trần Văn Thà ở số 62, Phù Đổng (TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa).

Đứng sau các anh hùng

Tháng 1-1946, ông gia nhập Quân đội tại Nha Trang, nhưng trước đó, tháng 8-1945, ông là một trong những người đầu tiên tham gia giành chính quyền ở huyện Ninh Hòa và Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa). Ông nghỉ hưu năm 1983, với cấp bậc Đại tá. Dù đã hơn 80 tuổi, tóc bạc trắng, nhưng ông vẫn khá minh mẫn. Bằng chất giọng nhỏ nhẹ và đều đều, ông kể về hành trình suốt gần bốn năm cầm súng đã qua. Không thể hình dung được một ông lão hiền từ và đẹp như ông tiên, hào hứng kể chuyện chiến đấu lại là một chỉ huy nổi tiếng thông minh, quyết đoán và gan dạ một thời. Với ông, dường như sự quyết đoán trong chỉ huy là một tố chất. Nhắc đến những kỷ niệm thời trận mạc, mắt ông sáng lên, khuôn mặt phấn chấn, mấy chiếc lông mày trắng rung rung, đong đưa đẹp đến lạ, ông tâm sự:

- Nếu không quyết đoán, chắc tớ hy sinh từ trận đánh ở dốc Măng Giang hồi kháng chiến 9 năm cơ, chứ đâu sống đến bây giờ.

Ông kể: Ngày 15-3-1953, trung đội ông được giao nhiệm vụ dẫn đầu đội hình c182 vượt dốc, chiếm đỉnh đồi Măng Giàng. Khi bộ đội vận động lên được 1/3 dốc thì có lênh dừng lại, chờ c141. Ông rất bất bình. Nếu đứng chờ, địch lên đỉnh dốc trước, cả đội hình sẽ trở thành bia cho địch. Ông quyết định cho trung đội hành quân, cử liên lạc quay về báo cáo đại đội trưởng, không đợi đội hình c141. Lên đỉnh đồi, ông phát hiện từ phía bên kia, hàng chục lính Pháp cũng đang vội vã leo dốc chiếm đồi. Ông lập tức triển khai đội hình chiến đấu. Khi địch cách 10 mét, ông lệnh nổ súng và tiêu diệt gọn 20 tên đi đầu. Bọn còn lại hoảng loạn tụt dốc. Ông lệnh bộ đội xung phong truy kích đến đợt thứ 2 thì đội hình c182 mới vận động lên tiếp ứng. Ông cùng Đại đội 182 tấn công truy kích đợt 3, đợt 4. Lúc này c141 mới vận động tới trận địa. Kết thúc trận đánh, đơn vị ông diệt hơn 100 tên, bắt sống 3 tù binh, thu toàn bộ vũ khí mà không một người nào bị thương, hy sinh.

Những quyết định chính xác, kiên quyết của ông được thể hiện rõ nhất khi ông là đảo trưởng đảo Cồn Cỏ và Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 47. Khi nhận chức đảo trưởng (tháng 5-1965), ông đã bố trí lại thế phòng ngự: Đưa toàn bộ lực lượng ra chung quanh rìa đảo; thành lập Đảng bộ đảo Cồn Cỏ; di dời Sở chỉ huy và Trung tâm thông tin ra bãi đá mép nước (Sơn Tây), tạo thế bất ngờ, bí mật, an toàn. Sau này, khi cuộc chiến bảo vệ đảo ngày càng quyết liệt, mọi người mới thấy quyết định của ông là sáng suốt. Tiếp đó ông đã tổ chức đào công sự và 8km hào chiến đấu, hào giao thông. Chính ông là người nghiên cứu, thiết kế và chỉ huy bộ đội đào 300 mét địa đạo, gồm 3 ngách ở đồi Con Hổ trong hơn 10 tháng để chiến đấu được liên tục. Cũng chính ông là người đầu tiên tổ chức và phát động đảo trồng rau xanh để không quá phụ thuộc vào tiếp tế của đất liền. Vì vậy, trong suốt 1.440 ngày chỉ huy giữ đảo, ông trực tiếp tham gia đánh 601/841 trận, bắn rơi 48 máy bay, bắn cháy 17 tàu, xuồng của địch, ta chỉ hy sinh 30 đồng chí. Trong thời gian ông làm chỉ huy đảo, có 3 đồng chí được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Ông cùng đồng đội đã đóng góp xứng đáng vào thành tích 2 lần được tặng danh hiệu Anh hùng của đảo Cồn Cỏ, nhiều lần được Bác Hồ gửi thư khen ngợi và tặng ảnh chân dung.

Cựu chiến binh Trần Văn Thà thăm khám và điều trị cho các bệnh nhân. Ảnh do nhân vật cung cấp. 

Ông kể về những trận chiến đấu đáng nhớ bên sông Cửa Việt. Sau 2 ngày chiến đấu tại thôn Lâm Xuân Đông, Tiểu đoàn 47 của ông đã đẩy lui nhiều đợt tiến công và gây cho địch nhiều tổn thất, bên ta có 33 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, trong đó có 2 đồng chí thuộc Báo Quân đội nhân dân và 71 người bị thương. Tại cuộc họp Đảng ủy Tiểu đoàn, chỉ mình ông là không đồng ý rút ra, vì cho rằng: “Ta có thiệt hại, nhưng địch cũng thiệt hại nặng, trận địa vẫn giữ vững, sao không củng cố để ngày mai đánh tiếp?” Hành quân ra được một đoạn, ông chạy lên phía trước đội hình kêu lớn:

-  “Yêu cầu anh em tiểu đoàn 47 đứng lại”.

Ông đứng lên cồn cát cao và nói: “Thưa anh em, tôi là Trần Văn Thà – Tiểu đoàn trưởng 47, xin lỗi tất cả anh em! Rút ra trong lúc này là một sai lầm, mong anh em tha thứ! Bây giờ tôi kêu gọi anh em ở lại cùng tôi đánh địch, giữ vững bờ sông Cửa Việt, dù phải hy sinh. Tôi không ra lệnh mà kêu gọi ai đồng tình thì đi theo tôi”. Có 100 người, trong đó có 39 đảng viên ở lại. Nói rồi, ông mang AK đi trước, anh em cùng lần lượt theo sau. Trong 108 ngày đên chiến đấu ấy, đơn vị ông đã có 2 đồng chí được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.

Sự quyết đoán ấy là một kỷ niệm khó quên trong đời chỉ huy của ông. Chính vì quyết định này mà năm 1969, khi xét tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân ông đã không nhận. Đến năm 2011, ông lại được cơ quan chức năng của Quảng Trị đề nghị xét truy tặng danh hiệu cao quý này, nhưng một lần nữa ông vẫn cương quyết từ chối vì lý do không muốn nói sai sự thật. Khi biết tin này, có người là lãnh đạo trong làng báo đã thốt lên: Đó cũng là hành động anh hùng rồi.

Lương y của dân nghèo

Ngay từ năm 1950, ông đã được mẹ nuôi, cậu nuôi truyền lại một số bài thuốc gia truyền, cách bấm huyệt trị một số chứng đau nhức, trật trẹo. Ông đã áp dụng giúp đồng đội và dân nghèo trong chiến đấu. Khi về  hưu, thấy nhiều người thân trong gia đình, dòng họ, đồng đội và dân nghèo trong vùng lâm bệnh nặng mà không có tiền chữa trị, ông quyết tâm đi học đông y. Năm 1991, ông đến trường Y Dược học cổ truyền dân tộc trong TP Hồ Chí Minh để xin học. Từ năm 1992 - 1994, ông được học tại chức buổi tối miễn phí. Trước đó, năm 1991, ông đã ra Trại Găng (Bạch Mai, Hà Nội) để học chữa bệnh ngoài da một ông thầy người thổ, nhưng không đạt vì ông ta chỉ lừa mị con bệnh lấy tiền. Ông lại vào Văn Thánh (Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh) học bấm huyệt từ lương y Lịch. Tại Trường Y dược học cổ truyền dân tộc, 35 học viên của lớp tại chức ban đêm gọi ông già 63 tuổi, tóc bạc, mang kính lão 4,5 độ là bố. Kết thúc khóa học, ông làm việc tự nguyện, không lãnh lương 6 tháng tại bệnh viện thực hành của trường. Trong thời gian ở đây, ông đã giúp điều trị khỏi bệnh cho nhiều người, điển hình là trương hợp của chị Hoàng Thị Kim Huê, cán bộ Ty y tế Vĩnh Linh, bị tai biến mạch máu não – bại liệt.

Từ tháng 6-1995, ông về nhà và chữa bệnh cho vợ, bà Nguyễn Thị Thu. Bà bị thoái hóa toàn bộ cột sống, viên khớp háng không đi lại được đã từ lâu. Sau một thời gian điều trị, vợ ông khỏi bệnh và đi chợ, đi bộ ra biển; nhân dân biết tin rủ nhau đến nhà yêu cầu ông chữa bệnh rất đông. Với kiến thức học được, sau này ông đã chữa khỏi bệnh thêm cho nhiều người ở quanh tỉnh Khánh Hòa, điển hình như: bà Hồng (Nha Trang); chị Thoa ở Diên Khánh, bị xơ gan cổ trướng; cháu Thanh Thủy bị hen mãn tính. Cháu Thủy đã viết lời cảm ơn ông trong thư: “Cháu cũng không còn lên cơn hen vật vã như trước đây nữa. Cháu viết lên những dòng chữ này với lòng biết ơn bác sâu sắc, cháu mong sao những người mắc bệnh hen như cháu sẽ biết đến bài thuốc của bác nhiều hơn nữa để không còn khổ tâm với cơn hen của mình nữa”. Chị Lê Thị Tuyết Nhung (sinh năm 1965), ở huyện Diên Khánh, bị chứng “thận ứ dịch, viêm bàng quang và sỏi thận” không có tiền điều trị, khi biết tin qua Báo Khánh Hòa, ông đã dùng bài thuốc học được điều trị khỏi bệnh.

Vợ chồng cựu chiến binh Trần Văn Thà vui với hạnh phúc tuổi già.

Từ năm 2007 đến năm 2012, ông làm tự nguyện cho phòng khám cựu chiến binh tỉnh Khánh Hòa (số 31, Trần Quý Cáp, TP Nha Trang). Khi biết có trường hợp bị bệnh hiểm nghèo, kinh tế khó khăn, ông liên lạc ngay với gia đình và điều trị miễn phí cho bệnh nhân. Ông và các cựu chiến binh ở đây đã khám, cấp thuốc điều trị miễn phí cho gần nghìn người nghèo mỗi năm. Bằng bài thuốc Trạch tả dừa cạn thang ông đã điều trị cho cháu Thảo Vy, con anh Nguyễn Đình Hoan, cảnh sát khu vực phường Vĩnh Nguyên khỏi bệnh bạch cầu cấp dòng Lympho (ung thư máu). Đến nay, ông đã viết được hơn một trăm bài thuốc dân gian gia truyền đăng trên các báo chuyên ngành y học cổ truyền. Tiến sĩ Nguyễn Thướng, Chủ tịch Hội Đông y tỉnh Khánh Hoà đã viết về ông: “Chúng cháu cũng rất hạnh phúc khi được nhận từ Cụ, tấm gương của một cuộc đời hoạt động không mệt mỏi, một người lính, một người thầy thuốc".

82 tuổi đời, với gần 40 cầm súng, 4 lần bị thương, từng tham gia đánh 380 trận lớn, nhỏ; về với đời thường, ông lại chữa bệnh từ thiện cho nhiều dân nghèo khỏi bệnh. Tấm gương sáng ngời về chữ nhân, chữ đức, đặc biệt là không ham danh lợi của ông thật đáng học tập.

Bài, ảnh: Văn Lâm