QĐND - Sau khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển phương châm "đánh nhanh, thắng nhanh" sang "đánh chắc, tiến chắc", Sở chỉ huy chiến dịch cũng được chuyển về Mường Phăng, nơi nghe được tiếng bom địch ném quanh lòng chảo Mường Thanh. Lúc này, tòa soạn Báo Quân đội nhân dân cũng được di chuyển theo. Tòa soạn đóng quân trên một quả đồi có cái tên rất đẹp mà phải gần 60 năm sau, những người lính làm báo mới biết-đồi Ngựa Hí. Nơi này cách rừng Đại tướng không xa. Từ đây, những người lính làm báo bước vào những ngày làm báo sôi động nhất, dồn dập nhất, gian khổ nhất mà theo nhà báo Trần Cư, phải mấy chục năm sau hòa bình, ông mới nhận ra đó cũng là những ngày sung sướng nhất trong cuộc đời…
Đồi Ngựa Hí bên rừng Đại tướng
Trở lại Mường Phăng mùa xuân năm 2014. Không khó khăn lắm, chúng tôi nhận ra ngay “rừng Đại tướng” - nơi đặt Sở chỉ huy chiến dịch năm xưa. Rừng Đại tướng đã trở thành rừng thiêng khi cây cối xanh um, bạt ngàn cổ thụ. Dù những quả đồi xung quanh cây cỏ lưa thưa nhưng rừng Đại tướng không ai chặt một cây, kể cả những cây gỗ mục vẫn còn nguyên trạng. Đứng từ rừng Đại tướng, nhìn qua cánh đồng, nhà báo Phạm Phú Bằng xác nhận: “Quả đồi bên kia chính là nơi tòa soạn hoạt động năm xưa. Còn cánh đồng trước mặt ngày đó không thoáng như thế này mà là một cánh đồng hoa riềng”.
 |
Đồi Ngựa Hí hôm nay (nhìn từ rừng Đại tướng).
|
Điều này trùng khít với hồi ký của nhà báo Trần Cư kể lại rằng: “Mường Phăng, nơi chúng tôi ở lâu hơn cả. Cánh đồng Mường Phăng bằng phẳng, đến tháng tư, tháng năm nở đầy hoa riềng màu vàng chanh, tím, hồng rất rực rỡ, trông như một bức thảm khổng lồ nhưng bị thủng lỗ chỗ vì những hố bom lớn…
Từ chỗ tòa soạn và nhà in, chúng tôi muốn tới chỉ huy sở chỗ anh Văn, anh Liêm làm việc phải đi qua cánh đồng hoa riềng này, rồi rẽ vào một khu rừng tương đối rậm ở trên, nhưng lại thoáng ở dưới. Anh Tùy và Phú Bằng thường phải qua đây hàng ngày để lấy tin của Cục Tác chiến, hoặc họp Ban Tuyên huấn. Tôi vì quá bận bài vở nên khi nào buổi chiều rảnh tôi hay qua đây kiếm mấy bông hoa riềng về cắm vào ống nứa trên bàn viết, và tranh thủ trò chuyện với các đồng chí bảo vệ”.
 |
Bác Quàng Văn Xuyên (trái) - người được giao quản lý khu đồi Ngựa Hí vui mừng đòn nhà báo lão thành. Ảnh: NGUYÊN MINH.
|
Nói thì đơn giản vậy, nhưng để tìm lại được vị trí đặt tòa soạn, năm 2011, nhà báo lão thành Nguyễn Khắc Tiếp cùng Trung tướng Lê Phúc Nguyên trở về Mường Phăng cũng là một hành trình của những hồi ức. Sau 60 năm, vật đổi sao dời, tìm lại được một di tích khi mà người trong cuộc trong điều kiện thời chiến năm xưa cũng không được biết địa danh, đi lại đều theo mật khẩu đâu phải dễ dàng. Vậy mà khi vào rừng Đại tướng, nhìn thấy hầm của đồng chí Lê Liêm, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị kiêm Chủ nhiệm Chính trị Chiến dịch Điện Biên Phủ, bàn chân người lính già 89 tuổi Nguyễn Khắc Tiếp như có phép màu. Cụ cứ thế bước phăm phăm vượt con suối, băng qua những thửa ruộng lúa vừa gặt, tìm đến chính giữa quả đồi nhỏ. Bí thư Đảng ủy xã Mường Phăng Lò Văn Biên cho hay, quả đồi này từ lâu đời địa phương gọi là đồi Pu Ma Hong (đồi Ngựa Hí). Thật là một cơ duyên trùng hợp thú vị của lịch sử. Năm Giáp Ngọ, 1954, Tòa soạn tiền phương Báo Quân đội nhân dân được bố trí bên sườn đồi Ngựa Hí, những người lính làm việc với tốc độ ngựa phi nước đại. Và mùa xuân này, cũng xuân Giáp Ngọ, khi người lính già Phạm Phú Bằng trở lại cắm cọc xác nhận nơi đặt bia di tích Báo Quân đội nhân dân, thông tin về tòa soạn đặc biệt bên sườn đồi lại một lần nữa được xác nhận. Bác Quàng Văn Xuyên, chủ nhân quản lý khu đất, cũng là một cựu chiến binh khi thấy chúng tôi đến đã ân cần đón tiếp. Bác cho biết, năm 1982 khi về canh tác trên quả đồi, còn thấy có tới 6, 7 chiếc hầm ven sườn đồi mà không biết hầm gì. Cụ Phú Bằng nghe thấy thông tin này thì thốt lên: “Đó chính là hầm ngày xưa chúng tôi đào, là nơi làm việc của tòa soạn”. Ngày ấy, thử thách đầu tiên với những người lính cầm bút chính là việc phải đào hầm hào, công sự. Lực lượng công binh không có, anh em lại chưa biết kỹ thuật đào hầm sâu vào núi, dụng cụ chỉ thô sơ toàn xẻng và cuốc chim.
Binh chủng “súng to”
Theo lời kể của cố nhà báo Trần Cư, “trong hoàn cảnh lúc đó, in được một tờ báo ngay tại mặt trận là cả một vấn đề. Một tờ báo dù nhỏ bé, đơn giản nhất cũng phải có ban biên tập, có văn thư, tức là phải có máy chữ, liên lạc. Nhưng kềnh càng nhất vẫn là anh nhà máy in, với giấy, mực in, các hộp chữ và các phụ tùng máy móc tối thiểu. Đó là cả một nhà in lưu động nhỏ hoàn toàn nằm trên vai các chiến sĩ. Mỗi người phải đeo hoặc gánh nặng trung bình 25kg chủ yếu là các máy móc vật liệu phụ tùng in, và cả quần áo, gạo muối, thức ăn. Trước khi là thợ in thì phải làm phu gánh nặng đã. Phải lội suối, trèo đèo, băng rừng, vượt núi, nhanh nhẹn, bền bỉ, dẻo dai, bằng đôi chân đi bộ hết. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, số anh em này đã đi liên miên như thế có đến hơn một ngàn cây số trong toàn chiến dịch. Hạ trại lại làm thợ in, đến khi hành quân di chuyển thì lại là chiến sĩ kiêm dân công”.
Chính vì dáng vóc kỳ dị của chiếc máy in mà theo nhà báo Phú Bằng, các cô dân công nhìn thấy bộ đội nhà in thì tấm tắc kháo nhau: “Các anh ấy không biết thuộc binh chủng gì mà “súng” to thế?”. “Nhà in” ở Điện Biên Phủ phải đề phòng máy bay nên máy được đặt trong căn hầm cao hai mét, rộng có thể bốn người làm việc được, ngoài lấy chăn trấn thủ che kín. Công nhân in phải thắp đèn bão suốt ngày đêm nên anh nào ở hầm chui ra mũi cũng đen sì mực in.
Quy trình làm báo giữa chiến trường
“Góc rừng nhộn nhịp hẳn lên khi chờ giờ nổ súng của các trận lớn, hồi hộp chờ tin chiến đấu và bài tường thuật đầu tiên gửi về để biên tập và sắp chữ ngay; nếu có vấn đề mới là cử phóng viên vù ngay xuống đơn vị phỏng vấn lấy thêm tài liệu. Những lúc đó cả tòa soạn, nhà in tới tấp làm việc, các phóng viên ở hỏa tuyến gọi điện về tuyên huấn, không hiểu sao cậu nhận điện ghi chép cứ phải quát to lên như nói chuyện với người điếc. Phóng viên khác vừa về kiếm một gốc cây ngồi viết bài. Nhà chữ sắp chữ rào rào. Trục lăn tay chạy lách cách liên tục. Một bát chữ báo, đến bát chữ bản tin, bươm bướm cứ tháo ra, lắp vào, tiếng búa chèn cứ chan chát nghe cứ như nhà đám đang “chặt thịt gà”… Trên trời, máy bay cứ lượn, đại bác xa xa cứ giọt ùng oàng, thỉnh thoảng nhiều tràng súng máy cứ rộ lên, nhưng trong cái thế giới báo chí viết lách in ấn này vẫn cứ sôi động các tiếng “khụt khịt”, “khọ khẹ”, “lách cách” và “chi chát” kỳ lạ ấy giữa rừng âm u… Vui nhất là lúc báo in xong, trao ngay cho đội phát hành chờ sẵn gánh bay đi đuổi theo đơn vị đang hành quân, đón đầu mà phát” - Nhà báo Trần Cư ghi lại quy trình làm báo tại mặt trận.
Nhưng để có được quy trình ấy, chỉ với 5 người trong trong tòa soạn tiền phương, các nhà báo đã phải làm việc “chạy đua với thời gian” như thế nào? Có thể hình dung rõ hơn công việc của họ qua việc khái lược như sau:
Chủ nhiệm Chính trị mặt trận Lê Liêm: Là người chỉ đạo tờ báo, ông vừa giao nhiệm vụ, định hướng chung lại vừa là cây bút chính luận xuất sắc, gần như một “người phát ngôn” của Bộ Tổng tư lệnh. Điều đặc biệt thú vị là ông còn trực tiếp viết bài cho báo. Trong 33 số báo, ông có tới hàng chục “bài đinh” trên trang nhất.
Chủ bút (tổng biên tập) Hoàng Xuân Tùy: Là chủ nhiệm báo kiêm thư ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ông được ở hầm ngay bên cạnh Đại tướng Tổng Tư lệnh. Ông thường xuyên, kịp thời chỉ đạo ê kíp làm báo, trực tiếp là Thư ký tòa soạn Trần Cư triển khai bài vở. Với nhiều nội dung quan trọng, Hoàng Xuân Tùy còn là người trực tiếp viết nhiều thông cáo, bài bình luận quân sự quan trọng. Ông còn có một người cộng sự là ông Hoàng Thế Dũng cũng viết một số bài trên báo.
Thư ký tòa soạn Trần Cư: Đúng hơn phải nói ông là một “tổng thư ký tòa soạn” đặc biệt hiếm có trong lịch sử báo chí. Chỉ có một mình ông đảm nhiệm toàn bộ công việc bếp núc tòa soạn mà ông vẫn thường nói là bận “quá con mọn”, ông đã bảo đảm tính khoa học, tính chính xác cực cao. Ông vừa biên tập, vừa sắp xếp trình bày, vừa liên lạc chỉ đạo phóng viên, vừa liên hệ và động viên cộng tác viên. Không dừng lại ở đó, tranh thủ những lúc làm báo xong, ông vội lao xuống các đơn vị, tìm hiểu, viết bài. Trong 33 số báo, số bài ông viết nhiều không kém phóng viên.
Phóng viên Nguyễn Khắc Tiếp: Ông là cây bút chủ lực đi như con thoi trên các chiến trường để lấy tin, viết bài. Ông còn là người được giao nhiệm vụ thường xuyên cơ động từ đồi Ngựa Hí vào sở chỉ huy nhận lệnh của Chủ nhiệm báo và tham gia biên tập tin, bài. Giỏi tiếng Pháp, ông còn tham gia hỏi cung nhiều tù binh địch sau các trận đánh.
Phóng viên Phạm Phú Bằng: Là phóng viên trẻ, ông rất năng động, tích cực đi cơ sở viết tin, bài. Ông được giao trách nhiệm chính trong việc liên lạc với Bộ Tổng tham mưu để nắm tin tức chiến sự và các bản đồ quân sự… Ngoài viết bài, biên tập bài, ông còn thực hiện chức năng "thông tấn quân sự" của Cục Tuyên huấn; biên tập và trung chuyển tin tức về Thông tấn xã Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam.
Hoạ sĩ Nguyễn Bích: Tuy chưa học qua một trường lớp hội họa nào nhưng ông là họa sĩ tài hoa, đã từng trình bày Báo Quân du kích. Ông là người trình bày báo, vẽ các bản đồ quân sự và nhiều bức tranh cổ động, tranh châm biếm trên báo. Ngoài ra, ông còn vẽ nhiều pa-nô, khẩu hiệu tuyên truyền, cổ động chiến trường phục vụ chiến dịch.
Phóng viên Nguyễn Trần Thiết: Cuối chiến dịch, ông được lệnh lên tăng cường cho tòa soạn tiền phương. Nhưng do điều kiện hành quân đi bộ xa xôi, khi ông tới Điện Biên Phủ thì chiến dịch đã toàn thắng, tòa soạn tiền phương cũng đã ngừng xuất bản.
Bộ phận nhà in gồm 12 đồng chí đã hành quân đưa máy in tập kết, đào hầm ven đồi và tổ chức in liên tục suốt ngày đêm. Không chỉ in thường, nhiều số báo quan trọng còn in 4 màu, nhất là những số có tranh cổ động, nhật lệnh quan trọng.
Bộ phận phát hành được tổ chức thành một trung đội nằm trên đồi Ngựa Hí. Sau khi báo in xong, lực lượng này dùng quang gánh gánh báo tới từng trận địa, phát tận tay bộ đội tới trung đội.
Nhà báo Trần Cư đã gọi 140 ngày làm báo ở Điện Biên Phủ với 33 số báo là 33 phát đạn đại bác bắn trong 140 ngày, những tiếng pháo tâm công. Nhịp độ báo ra thì lúc đầu định 4, 5 ngày ra một số, 2 trang. Sắp đến ngày mở màn Him Lam, có số ra tiếp luôn ngày hôm sau. Nhịp thở của báo do nhịp thở của chiến trường quy định…
“Ngay lúc bấy giờ thì không thấy sướng đâu! Chỉ thấy vất vả, cực nhọc vô cùng. Nhưng rồi với độ lùi của thời gian, ngoảnh đầu nhìn lại, nhận thức dần ra ý nghĩa đẹp đẽ và thiêng liêng của nó, thì mới thấy đó là hạnh phúc, mà không biết ngay” - nhà báo Trần Cư viết.
(còn nữa)
Ghi chép của NGUYÊN MINH
Bài 1: Lần xuất quân thứ tám
Bài 2: Ba số báo “mở màn” trên cánh đồng “Con Rùa”