Miếu thờ 10 nữ liệt sĩ dân quân Lam Hạ được xây dựng trên chính trận địa của Khẩu đội 1 năm xưa-nơi gần như cả khẩu đội pháo 37mm, gồm bộ đội chủ lực và dân quân cùng chiến đấu, đã anh dũng hy sinh trong trận đánh ngày 1-10-1966. Ngày nay, trong nhịp điệu hối hả của cuộc sống, vẫn luôn có rất đông khách thập phương, nhất là những đồng đội một thời cùng "vào sinh ra tử” đến dâng hương, tri ân tưởng niệm.

Thật may mắn cho những “vị khách” lần đầu về với Lam Hạ như chúng tôi. Đúng dịp này, những đồng đội còn sống trong đội hình chiến đấu của dân quân Lam Hạ năm xưa cũng tề tựu, “báo tin vui” cho những đồng chí đã hy sinh, rằng dịp này, đúng dịp kỷ niệm 50 năm các nữ dân quân hy sinh (10-1966/10-2016), tỉnh Hà Nam và các cơ quan chức năng sẽ tổ chức nhiều sự kiện, hoạt động trang trọng, ý nghĩa để tưởng nhớ, ghi công sự hy sinh huyền thoại và chiến công kỳ diệu của 10 “bông hoa thép” trên quê hương Lam Hạ.

Tại miếu thờ 10 nữ dân quân hy sinh, khi được hỏi chuyện, những kỷ niệm xưa ùa về trong tâm khảm của những cựu nữ dân quân tóc đã bạc, lưng đã còng. Bà Nguyễn Thị Mận (sinh năm 1947), nguyên là nữ dân quân Lam Hạ, ánh mắt ướt nhòa cùng hương khói trầm mặc. Bà cùng các đồng đội của mình như đang trở về một miền ký ức bất tận...

leftcenterrightdel
Đồng đội cũ, cùng đại diện cấp ủy, chính quyền địa phương dâng hương tại miếu thờ 10 nữ liệt sĩ dân quân Lam Hạ. Ảnh: HÀ ANH
Đó là một sáng mùa thu bình yên cách đây 50 năm-sự bình yên hiếm hoi trong cái khốc liệt của chiến tranh, trên trận địa phòng không đầu làng Đình Tràng, xã Tiên Hòa, huyện Duy Tiên (nay là phường Lam Hạ, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam), những nòng pháo sáng lên ánh thép, các chiến sĩ luôn sẵn sàng chiến đấu. Trong khi đó, một số đồng chí nữ dân quân Lam Hạ đã ra đồng từ tờ mờ sáng...

6 giờ 15 phút ngày 1-10-1966, tiếng còi báo động từ trung tâm thị xã Phủ Lý vang lên; tiếp đó là những tiếng kẻng liên hồi khắp đầu làng, ngõ xóm. Từ các trận địa báo tin, máy bay Mỹ đang kéo tốp cơ động đến đánh phá trận địa Lam Hạ. Khi tiếng kẻng chưa kịp dứt thì từng đàn máy bay địch đã bổ nhào thả bom, đánh phá các mục tiêu. Theo tin tình báo phòng không ta nắm được, đây là trận tập kích chiến lược tổng lực hòng xóa sổ các mục tiêu quân sự chiến lược ở Hà Nam. Không quân Mỹ đã huy động hơn 50 lần chiếc máy bay phản lực cường kích chiến lược, chia làm nhiều tốp, nhiều tầng, nhiều hướng ồ ạt lao vào công kích.

Thế nhưng, những tiếng nổ long trời lở đất, tiếng động cơ gầm rú, những toan tính tàn độc của kẻ đi xâm lược đã không thể uy hiếp và khuất phục được tinh thần chiến đấu của quân-dân Lam Hạ.

Buổi sáng hôm đó, khi máy bay Mỹ bắt đầu gầm rít trên bầu trời Hà Nam, tại xóm Đảo (thôn Đình Tràng), hai chị em Nguyễn Thị Thu (18 tuổi), Nguyễn Thị Thi (16 tuổi) chạy nhanh ra đầu ngõ, rồi vội xuống thuyền, sang trận địa pháo phòng không phía ngoài đê Bắc Châu Giang, tiếp cận vị trí chiến đấu. Bà Phạm Thị Quỳ, mẹ của hai nữ dân quân vội chạy theo, nói với theo: “Các con cẩn thận, chiến đấu xong nhớ về ngay để bố mẹ khỏi mong!”. Bà đâu có ngờ, đó là câu nói cuối cùng bà căn dặn các con. Câu nói ấy đeo bám bà suốt 46 năm, kể từ ngày các chị hy sinh cho đến ngày bà “về với tiên tổ" ở tuổi 104, vào năm 2012 (mẹ đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 2014). Và cũng từ buổi sáng hôm ấy, lắng sâu trong người mẹ khắc khổ là niềm tự hào về lòng quả cảm và kỳ tích chiến đấu của hai cô con gái bé nhỏ, yêu thương.

Trong trận chiến sáng hôm đó, chị Nguyễn Thị Thi bị thương nặng khi đang cùng đồng đội trên mâm pháo của Khẩu đội 2 Pháo phòng không 37mm, liên tục nhả đạn vào lũ “Thần sấm”, “Con ma”. Máy bay địch ném bom điên loạn, một quả bom rơi đúng trận địa, nhiều đồng chí hy sinh tại chỗ. Chị Thi bị mảnh bom phạt ngang bụng và làm gần đứt lìa chân trái, nhưng vẫn nén cơn đau, tiếp tục chiến đấu. Khi được chuyển về tuyến sau cấp cứu, chị nói với anh trai mình là Nguyễn Văn Thái, cũng là xạ thủ cùng chiến đấu trên trận địa: “Anh cứ để em nằm đây rồi trở về vị trí chiến đấu để trả thù cho đồng đội và cho em”. Biết rằng mình không qua khỏi vì vết thương quá nặng, cô gái 16 tuổi quả quyết với các y sĩ, bác sĩ ưu tiên dành thuốc mê cho những người khác và hãy cứ cưa chân mình mà không cần gây mê... Tối hôm đó, nữ dân quân Nguyễn Thị Thi đã bình thản, nhẹ nhàng về với lòng đất mẹ!

Cũng trong sáng hôm đó, người chị ruột của Nguyễn Thị Thi là Nguyễn Thị Thu đã vững vàng ở vị trí pháo thủ, cùng đồng đội ở Khẩu đội 1 nhắm thẳng quân thù nhả đạn, khiến “lũ quạ sắt” của không quân Mỹ phải hốt hoảng rút chạy. Thế nhưng, ở đợt không kích thứ tư, khẩu đội bị trúng bom, chị Thu ngã xuống ngay tại vị trí chiến đấu-trên mâm pháo, khi đạn đã lên nòng, khi ánh mắt vẫn hướng thẳng lên bầu trời!

... Vào một buổi sáng mùa thu bi tráng sau đó hơn một tuần - sáng 9-10-1966, trong ngôi nhà nhỏ sát bến Châu Giang, cô gái 17 tuổi Nguyễn Thị Thuận đang giúp mẹ rang ngô cho các em. Khi vừa nghe tiếng còi báo động, chị Thuận chỉ kịp túm nắm ngô rang vào chiếc khăn mùi xoa, rồi dặn cậu em trai Nguyễn Văn Phước (sinh năm 1963) nhớ ăn sáng. Chị cũng không quên dặn em gái Nguyễn Thị Hành (sinh năm 1950): “Hôm nay địch đánh ác liệt, em có ra trận địa thì ra sau, đừng đi cùng...”. Và rồi, chính trong cuộc đối đầu ác liệt sáng hôm ấy, chị Thuận cùng hai nữ dân quân Lam Hạ khác và một số chiến sĩ Trung đoàn Phòng không 233 đã mãi đi xa...

Họ là 3 trong số 10 nữ dân quân Lam Hạ luôn sẵn sàng xung trận và đã anh dũng chiến đấu, hy sinh khi Tổ quốc cần. Khi chưa "đón bom về" (theo cách nói của người dân Lam Hạ khi đó), các nữ dân quân chăm lo việc đồng áng, ruộng vườn, nhưng chỉ sau một hồi còi báo động, tất cả như những con thoi, hướng ra trận địạ, quên đi những ước vọng tuổi trẻ và cả mạng sống của mình. Khi ngã xuống, chị Nguyễn Thị Thuận còn để lại hoài bão được đứng trong hàng ngũ của Đảng, bởi thủ tục hồ sơ đã hoàn thiện, nhưng chị vẫn chưa đủ 18 tuổi. Chị Nguyễn Thị Thu để lại lời đính ước dang dở với người con trai hiền lành, tốt tính cùng xóm Đảo nghèo khó. Chị Đinh Thị Tâm chưa thể thực hiện lời hứa với bạn bè: "Nếu mình sống qua chiến tranh, sẽ tổ chức một đám cưới thật vui để mời các bạn tới dự...”. Hay cô giáo Vũ Thị Thanh Phương (làm nhiệm vụ cứu thương trên trận địa) chưa dạy xong bài hát "Trồng hoa bên đài liệt sĩ" cho các học sinh lớp 4C do cô chủ nhiệm ngày ấy. Còn chị Nguyễn Thị Oánh không thể một lần được làm mẹ, dù đã mang trong mình giọt máu yêu thương... Và còn nữa, còn nữa những ước hẹn, ước mơ đẹp đẽ, sáng trong của các chị đã mãi hòa vào sông nước, đất trời quê hương Lam Hạ.

Các chị hồn nhiên là vậy, nhưng chiến tranh không buông tha bất cứ ai. Sau mỗi trận đánh, Lam Hạ lại mất thêm những người con ưu tú. Những cô gái mười sáu, đôi mươi lần lượt dâng hiến tuổi xuân cho lý tưởng độc lập, tự do và cuộc chiến chính nghĩa phi thường. Lời nhắn gửi đơn sơ và hoài bão cao đẹp của các chị, theo nhiều năm tháng qua đã là niềm cảm hứng bất tận cho văn chương và thi ca; là biểu trưng cao đẹp để giáo dục truyền thống quê hương Lam Hạ anh hùng. Tên tuổi các chị đã tạc ghi, đi vào lịch sử quê hương Hà Nam kiên cường, bất khuất, như những dấu son chói lọi, đẹp đẽ nhất.

Đúng như lời ông Nguyễn Văn Phước (em trai của liệt sĩ Nguyễn Thị Thuận) hiện là Bí thư Chi bộ thôn Đường Ấm (Lam Hạ), rằng: “Kỷ niệm về các nữ dân quân thuở ấy trong chúng tôi và mỗi người dân Lam Hạ luôn sống động, tươi mới. Khi còn sống, mẹ tôi thường kể về chị Thuận, cũng vì thế, người thân trong gia đình biết rõ về tính cách, vóc dáng của người chị xinh xắn, quả cảm, thông minh”. Cứ như thế, trong nửa thế kỷ qua, chuyện về các nữ dân quân Lam Hạ được lưu truyền qua bao thế hệ như một “bài giảng”đầu đời không thể thiếu cho lớp trẻ nơi đây. Trong câu chuyện ấy, chắc chắn không chỉ có sự hồn nhiên, trẻ trung, vô tư hiến dâng tuổi xanh cho Tổ quốc, mà hơn thế là sự gan góc, mưu trí, quả cảm đến thần kỳ trong chiến đấu của các mẹ, các chị.

Trong 3 trận đánh ác liệt tại địa bàn Lam Hạ (vào các ngày 1-10, 9-10-1966 và 7-7-1967), các nữ dân quân đã lần lượt anh dũng hy sinh. Người trước vừa ngã xuống, người sau đã xông lên, đứng thẳng trên mâm pháo khi máu đồng đội chưa kịp khô và tiếp tục ngẩng cao đầu “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”. Có lẽ bởi thế mà đồng chí Nguyễn Đình Khang, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam tâm huyết khẳng định: Đó là cuộc chiến hết sức ác liệt, cuộc đối đầu trực tiếp, trực diện giữa ta và địch. Các nữ dân quân Lam Hạ không chỉ phục vụ chiến đấu, mà trực tiếp chiến đấu hết sức quả cảm, ngoan cường. Các chị là những chiến sĩ thực thụ trên mâm pháo, hướng thẳng nòng súng về phía quân thù, hiên ngang giáng trả kẻ thù đến xâm lược.

Trở lại với khung cảnh buổi sáng bên dòng Châu Giang của mùa thu năm nay, đứng trước miếu thờ 10 nữ liệt sĩ dân quân Lam Hạ, cô Lưu Thị Mến (sinh năm 1946) ở thôn Đình Tràng, nguyên là pháo thủ số 3 (pháo 37mm) say sưa kể về những câu chuyện tưởng như không có hồi kết. Khi chúng tôi nói lời chia tay, bất chợt người nữ dân quân năm nào nấc nghẹn gọi tên đồng đội, như điểm danh từng người: "Nguyễn Thị Thu - Nguyễn Thị Thi - Đinh Thị Tâm - Phan Thị Tuyết - Phạm Thị Lan - Vũ Thị Thanh Phương - Nguyễn Thị Thuận - Trần Thị Thẹp - Nguyễn Thị Oánh - Đặng Thị Chung". Người phụ nữ tuổi gần thất thập, mắt đã mờ, cũng không chủ ý nhìn vào tấm bia chung khắc tên của 10 nữ dân quân, mà lời cô cứ sang sảng, thuộc làu họ tên của từng đồng chí, đồng đội đã “đi xa” cách đây tròn nửa thế kỷ, với đằng đẵng nhớ thương!

Tiếng gọi ấy như đánh thức tâm linh, như kết nối âm-dương xa cách. Đã gần 10 giờ sáng, trời Lam Hạ đang trải nắng vàng, bất chợt lại đổ cơn mưa. Giữa không gian linh thiêng, tĩnh lặng, những giọt lệ lại trào ra trong từng đôi mắt không còn tinh nhanh của những cô gái dân quân Lam Hạ một thời...

(còn nữa)

Ghi chép của NGUYỄN TẤN TUÂN