QĐND - Từ thành công của ngành viễn thông,  công nghệ thông tin (CNTT),  nhiều chuyên gia khẳng định đây là một minh chứng sinh động, ủng hộ quan điểm: Quản lý nhà nước nên theo hướng phục vụ yêu cầu phát triển, phục vụ doanh nghiệp.

Nên tổng kết mô hình trình Đại hội Đảng

Tiến sĩ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng mô hình quản lý của khối viễn thông sẽ là một gợi ý hay cho chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Trong đó, chính quyền, nhà quản lý phục vụ doanh nghiệp với tư duy mở cửa, chấp nhận cạnh tranh. Ông cũng kiến nghị rằng mô hình này cần được tổng kết và trình ra Đại hội lần thứ XI của Đảng.

Việt Nam cần rất nhiều nhân lực về CNTT. Ảnh: Lê Mai

 

Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, mô hình quản lý của khối viễn thông và mô hình của tỉnh Bình Dương là hết sức cởi mở, tân tiến, và đầy tính đột phá, với tuyên ngôn “chính quyền phục vụ doanh nghiệp”. Điều này đã thể hiện tính đúng đắn trên thực tiễn. Trong đó, doanh nghiệp trở thành trung tâm của phát triển và chính quyền cùng những chính sách của mình phải hỗ trợ sự phát triển đó. Ông Trần Đình Thiên mong mô hình trên sớm được Đảng, Chính phủ tổng kết để nhân rộng cho các địa phương khác, bộ ngành khác học tập, làm theo, thông thoáng hóa tư tưởng quản lý để tránh những xung đột giữa quản lý và phát triển.        

Tiến sĩ Nguyễn Quang A cũng cho rằng để các ngành cung cấp dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế và xã hội như điện, nước làm được như ngành viễn thông cũng không phải dễ, bởi một số điều kiện và đặc điểm riêng. Tuy nhiên, tư duy quản lý cởi mở, thúc đẩy cạnh tranh là yếu tố có thể áp dụng, học tập.

Để có thể thực hiện được quan điểm quản lý cởi mở, đương nhiên sẽ gặp nhiều rào cản từ tư duy quản lý cũ. Tiến sĩ Mai Liêm Trực, nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ Bưu chính - Viễn thông nhớ lại khi Chỉ thị 58 được soạn thảo đã có nhiều ý kiến phản đối kịch liệt. Tuy nhiên, những người soạn thảo đã dũng cảm vượt qua và Bộ Chính trị lúc đó đã thể hiện sự sáng suốt khi thông qua rất nhanh và ngay sau đó nhanh chóng cho triển khai rộng khắp cả nước.

Ông Mai Liêm Trực vẫn trăn trở rằng trong Chỉ thị 58 cũng có những điểm chưa thỏa đáng nhưng còn phải giữ vào thời điểm đó. Ví dụ như quy định ưu tiên giá cước dịch vụ cho các cơ quan Đảng, Nhà nước và Chính phủ. “Theo tôi đã cạnh tranh là phải rõ ràng, sòng phẳng, không nên ưu tiên đối tượng, gây thiệt hại cho doanh nghiệp.” Ông Trực thể hiện quan điểm.

Hiện nay rào cản về tư duy chưa phải đã hết. Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Lê Nam Thắng cho biết, cho đến hiện nay, sau 10 năm nhiều tinh thần tiến bộ của Chỉ thị 58 vẫn chưa được áp dụng đầy đủ, mới chỉ áp dụng vào thực tế lần lượt từng phần. Phải tận đến 1-7-2010, khi Luật Viễn thông có hiệu lực, thì mới bắt đầu cho phép mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển viễn thông, Internet đúng theo tinh thần Chỉ thị 58. Như thế là mất 10 năm để một tinh thần chỉ đạo sáng suốt được cụ thể hóa bằng luật.

Rất cần chỉ thị “58 mới”

Mặc dù khẳng định các định hướng chung của Chỉ thị 58 đến nay vẫn đúng, nhưng nhiều chuyên gia cho rằng, thời gian tới vẫn nên có một văn bản mới có hiệu lực chính trị mạnh hơn Chỉ thị 58 để hâm nóng lại và tạo ra khí thế mới cho ngành CNTT. Văn bản đó tốt nhất là do Bộ Chính trị ban hành và sẽ thật đáng quý nếu phát triển CNTT được nhấn mạnh trong Nghị quyết Đại hội Đảng XI sắp tới.

Từng giữ chức vụ quản lý ở cấp bộ, tiến sĩ Mai Liêm Trực cho rằng tư tưởng quản lý trong ngành viễn thông, CNTT cần tiếp tục thông thoáng hơn, cởi mở hơn, phải thực sự trở thành bệ phóng của phát triển.

Cách đây 10 năm, Chỉ thị 58 định hướng phát triển CNTT để phục vụ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Nhưng trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, khái niệm công nghiệp hóa đã khác trước, không còn là hình ảnh những nhà máy ống khói ngút trời nữa mà chuyển dịch sang định hướng là ngành dịch vụ có hàm lượng chất xám cao. Vì vậy, định hướng phát triển CNTT nên có thay đổi theo xu hướng đó.

Về vấn đề nhân lực CNTT, ông Lê Trường Tùng, Hiệu trưởng Đại học FPT mong sẽ có thay đổi toàn diện trong tư duy quản lý, coi đào tạo nhân lực CNTT như là ngành kinh tế tuân thủ theo các quy luật của thị trường. Các trường đào tạo CNTT được tự chủ về tài chính, về chỉ tiêu tuyển sinh cũng như nội dung đào tạo. Nếu được như vậy, cơ chế thị trường sẽ thúc đẩy chất lượng nguồn nhân lực CNTT.

Về ứng dụng CNTT trong khu vực nhà nước, giáo sư Đặng Hữu, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, nguyên Trưởng Ban chỉ đạo quốc gia về CNTT đề nghị cần đưa ra các quy định cụ thể gắn trách nhiệm của những người đứng đầu với các mục tiêu ứng dụng CNTT. Người lãnh đạo phải trực tiếp chỉ đạo việc ứng dụng CNTT để phục vụ công cuộc đổi mới, phục vụ việc thay đổi cách làm việc bằng CNTT. Thực tế đã chứng minh, nơi nào lãnh đạo hăng hái thì ứng dụng CNTT sôi động và có hiệu quả hơn hẳn.

Một vài ý kiến cho rằng, điều quan trọng nhất của ứng dụng CNTT là phải đi đôi với thay đổi tổ chức và thay đổi cách làm việc, chứ không phải ứng dụng CNTT để tin học hóa cách điều hành thủ công. Ứng dụng CNTT sẽ giúp minh bạch hóa các quy trình xử lý thông tin trong các cơ quan nhà nước, do đó nếu các lãnh đạo không thực sự nhập cuộc, vẫn chưa muốn thực sự công khai minh bạch sẽ không thể đưa CNTT vào một cách hiệu quả.

Giáo sư, tiến sĩ Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường cho rằng, cần có những chính sách thúc đẩy phát triển bền vững cả về hạ tầng, công nghiệp phần cứng, công nghiệp phần mềm, các ứng dụng và tăng cường đào tạo nguồn nhân lực CNTT. Đặc biệt, cơ quan quản lý chuyên ngành cần chú trọng tạo cơ sở pháp lý khẳng định CNTT là động lực thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế, coi trọng phát triển hạ tầng CNTT như các hạ tầng cơ bản khác. Chính sách phát triển CNTT không nên thiên về việc áp dụng các quy định cấm hay gây cản trở sự phát triển, đặc biệt là với Internet cũng như ngành công nghiệp nội dung số.

Theo các phân tích, hiện đang tồn tại 3 thế giới: Một thế giới là các nước sản xuất công nghệ lõi; thế giới thứ hai là các nước làm công xưởng chế tạo và lắp ráp sản phẩm công nghệ; và thế giới thứ ba là những người đi mua và sử dụng công nghệ. Nếu Việt Nam không đẩy mạnh phát triển công nghiệp CNTT sẽ mãi mãi ở thế giới thứ 3, lệ thuộc hoàn toàn vào công nghệ nước ngoài, cái gì cũng nhập khẩu, trong khi CNTT là ngành có giá trị gia tăng rất lớn. Vì thế, chúng ta cần tiếp cận công nghệ, đào tạo chất xám để tự nghiên cứu, dần sản xuất ra các sản phẩm của riêng mình. Có thể lúc đầu những sản phẩm này chất lượng chưa được như ý, nhưng sẽ là tiền đề cho tương lai.

Hồ Quang Phương