QĐND - Từ Việt Bắc hành quân lên Điện Biên, những người lính cầm bút chưa kịp ổn định nơi ăn ở gần Sở chỉ huy tiền phương ở hang Thẩm Púa (huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên) đã nhanh chóng cho ra mắt số báo đầu tiên phục vụ chiến dịch ra ngày 28-12-1953. Ba số báo mở màn được ra lò trên cánh đồng mang tên Con Rùa (Búa Táu), cách hang Thẩm Púa không xa…
Bí mật Trần Đình
Hang Thẩm Púa chính là một lý do khiến nhà báo lão thành Phạm Phú Bằng không chịu đi máy bay mà kiên quyết ngồi ô tô cùng cánh lính trẻ. Sau 60 năm, ông vẫn nhớ như in rằng, mất khoảng 400km theo Quốc lộ 6, qua Sơn La, vượt đèo Pha Đin, đi qua nhiều cánh đồng với những guồng nước là tới hang Thẩm Púa.
Buổi trưa chúng tôi ăn cơm ở thị trấn Tuần Giáo, nghe kể chuyện vào hang Thẩm Púa, anh chủ quán sau khi bảo “vào đó rất khó, chắc phải cởi quần lội qua suối” đã nằng nặc đi xe máy theo sau đoàn. Anh có một nhã ý rất dễ thương rằng, đi theo để được vinh hạnh cõng người lính Điện Biên Phạm Phú Bằng qua suối.
Vượt qua những cánh đồng xanh mướt, con đường đất mấp mô bên dãy núi đá, chúng tôi đã tới cánh đồng Búa Táu. Dòng suối Nậm Hua hiền hoà có tới hàng trăm guồng nước đang miệt mài đưa nước lên nương càng làm phong cảnh thêm hữu tình, đẹp mắt. Rất may bữa nay người dân đã làm một chiếc cầu tre nho nhỏ vắt ngang dòng suối nên tôi có thể dìu người lính già qua suối, sang thẳng hang Thẩm Púa…
 |
Nhà báo Phú bằng cùng đồng bào địa phương trước hang Thẩm Púa
|
Vạch đám dây leo tìm lối đi, nhà báo Phú Bằng đứng trước cửa hang mà nước mắt rưng rưng:
- Hang Thẩm Púa này chính là nơi đầu tiên đặt Sở Chỉ huy tiền phương của Bộ Chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ từ 7-12-1953 đến 17-1-1954. Ngày 14-1-1954, tại hang này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng Tư lệnh đã phổ biến lệnh tác chiến bí mật với phương án "đánh nhanh thắng nhanh" và dự định ngày nổ súng ngày 20-1-1954.
Chỉ tay sang bên kia bờ suối, nơi có những nếp nhà sàn bên đồi nương xanh mướt, nhà báo Phú Bằng kể tiếp:
- Còn phía các nếp nhà sàn kia, chính là nơi ngày đó tòa soạn Báo Quân đội nhân dân đã dừng chân và xuất bản những số đầu tiên phục vụ chiến dịch.
Phải sau hòa bình nhiều năm, ông Phạm Phú Bằng mới tìm hiểu và biết các địa danh đó. Còn khi đi chiến dịch, các ông cũng không được biết là chiến dịch gì, đi tới đâu. Một nguyên tắc tối thượng là không bao giờ được hỏi các địa danh, hang gì, bản kia. “Ngày đó, đường từ Tuần Giáo vào Thẩm Púa đã hoàn thiện tương đối, xe chạy được nhưng để giữ bí mật, chúng tôi phải đi bộ là chính. Hơn thế, phải đi ban đêm và không đi cả đoàn. Chỉ nhắn là đi chừng 2 đêm tới đám rừng nào đấy thì sẽ có một mẩu giấy trắng gài bên một cái cây bên đường, đúng con số báo là nơi mình sẽ làm ban biên tập. Khi đến nơi, tôi phải đào ngay một cái công sự. Sau đó, cấp trên cử người đưa cho tôi một cái bản đồ, giao nhiệm vụ cho tôi được ở đó” - nhà báo Phú Bằng nhớ lại.
 |
Cánh đồng Búa Táu - nơi Báo Quân đội nhân tại Điện Biên Phủ xuất bản 3 số đầu tiên. Ảnh: VĂN MINH
|
Cố nhà báo Trần Cư, trong hồi ức của mình cũng viết: “Mỗi lần đi chiến dịch cũng chỉ được cấp trên dặn riêng để lặng lẽ chuẩn bị, không được nói với ai, ngay cả với anh em trong cùng cơ quan, chỉ biết là sẽ đi, nhưng cũng không biết bao giờ chiến dịch sẽ mở, ở đâu và đi hướng nào? Đặc biệt lần này, qua học tập được biết là chiến dịch mang bí danh Trần Đình. Thế thôi!”.
Cây súng, cây xẻng và cây bút
Trong hồi ức của mình, cụ Hoàng Xuân Tùy, từng là Chủ nhiệm báo kiêm Trưởng ban Tuyên huấn mặt trận Điện Biên Phủ đã ghi lại rất rõ về ý tưởng xây dựng tờ báo mặt trận từ khi ở hang Thẩm Púa: “Sau 20-11-1953, bộ phận tiền phương của Cục Tuyên huấn cũng đi theo bộ phận tiền phương của mặt trận lên đường. Lần này chúng tôi chuẩn bị chu đáo, có một bộ phận để ra một tờ báo xuất bản ở mặt trận do tôi phụ trách…
Trong công tác tuyên truyền, động viên tinh thần chiến đấu của bộ đội và dân công có một đặc điểm là có một tờ Báo Quân đội xuất bản tại mặt trận, đã phát huy tác dụng động viên, tuyên truyền mạnh mẽ và kịp thời nhất so với các phương tiện thông tin tuyên truyền lúc bấy giờ.
Ngày 28-12-1953, Báo Quân đội nhân dân mặt trận ra số đầu tiên ở hang Thẩm Púa, là số 116, lấy theo số của báo ở hậu phương, nhưng có in thêm tiêu đề: Xuất bản tại mặt trận...”.
Đồ nghề, phương tiện tác nghiệp của phóng viên chiến trường ngày ấy cũng thật đơn giản. Máy ảnh là của hiếm nên lúc bây giờ, chưa phóng viên nào có. Theo nhà báo Phú Bằng, đồ nghề cực đơn giản, quan trọng nhất là cây bút máy “vặn cổ đổ mực” khiến áo ông luôn lem nhem mực tím và cuốn sổ tay. Xài “sang” như Thư ký tòa soạn Trần Cư mới có bút Shaeffer, ngòi vàng, có đầu gắn hạt bạch kim. “Mua được cái bút này, tôi tưởng mình như một trang hiệp khách tình cờ mua được gươm báu”- ông Trần Cư kể.
Về tư trang, hai thứ bất ly thân nữa của phóng viên là cái xẻng và ruột tượng đựng gạo, mỗi người mang độ 5kg ăn được 3 ngày. Theo nhà báo Trần Cư, đã nặng lại còn phải đèo theo cái xẻng nhưng không thể thiếu xẻng được. Bởi vì, máy bay nhiều, đến đâu hạ trại, việc đầu tiên mỗi anh lính là phải tự đào ngay lấy cho mình một cái hố cá nhân cạnh chỗ nằm để đề phòng địch ném bom bất ngờ, hay đạn đại bác rót vu vơ.
Đại tướng và báo chí
Sở chỉ huy tiền phương chỉ ở Thẩm Púa đúng 1 tháng 10 ngày. Tuy nhiên, trong thời điểm ấy, Báo Quân đội nhân dân cũng đã kịp xuất bản 3 số đầu tiên phục vụ chiến dịch. Một câu hỏi đặt ra là Đại tướng và Bộ Tổng tư lệnh đã quan tâm tới vai trò của tờ báo như thế nào trong giai đoạn này?
Đọc lại hồi ký “Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, có thể thấy rất rõ Đại tướng rất quan tâm tới công tác báo chí và Báo Quân đội nhân dân. Cảm nhận của Đại tướng buổi đầu tiên lên Thẩm Púa như sau: “Đến cây số 15 đường Tuần Giáo - Điện Biên Phủ, xe rẽ vào Thẩm Púa, nơi đặt sở chỉ huy. Vùng này có suối, thác và nhiều núi đá, thoạt nhìn giống như Quảng Uyên, Cao Bằng. Không khí sở chỉ huy rất nhộn nhịp… Ngày 14-1-1954, mệnh lệnh chiến đấu được phổ biến trên một sa bàn lớn tại hang Thẩm Púa. Cán bộ cao cấp, trung cấp các đại đoàn tham gia chiến đấu đều có mặt”.
Tuy nhiên, như một dự cảm thần kỳ của người cầm quân, Đại tướng đã tỏ ra chưa thật sự yên tâm với phương án đánh nhanh thắng nhanh ngay từ đầu. “Trước mỗi trận đánh, tôi thường khuyến khích cán bộ nói hết khó khăn, để cùng bàn cách khắc phục”.
Cùng thời điểm này, có một sự kiện đặc biệt, thể hiện sự quan tâm của Đại tướng đối với công tác báo chí. Có đoàn nhà văn, nhà báo nước ngoài đi theo chiến dịch nhưng do thời gian chiến dịch kéo dài so với dự kiến, họ phải về nước. Trước lúc họ trở về, Đại tướng đã gặp gỡ họ. Trong hồi ký, Đại tướng đã kể lại câu chuyện thú vị này:
“Một buổi tối, anh Lê Liêm đề nghị tôi gặp bạn trước khi ra về. Cơ quan chính trị căng một chiếc dù hoa chiến lợi phẩm bên dòng suối lấp lánh ánh trăng làm nơi tiếp khách. Nhà văn Ba Lan nói:
- Thiên nhiên của các đồng chí đẹp quá? Khung cảnh thật là thanh bình.
Lúc này không có tiếng đại bác. Dưới ánh trăng, những mỏm núi đá nhấp nhô, mờ ảo. Tôi nói:
- Tôi cũng thấy phong cảnh ở đây rất đẹp. Tôi không phải nhà thơ nhưng cảm thấy cảnh này thật nên thơ. Chúng tôi lại sắp chiến đấu chính là để cho khắp đất nước đêm nào cũng đẹp như đêm nay.
Đồng chí nhà báo Tiệp Khắc nhận xét:
- Quân đội của các đồng chí thật lạ? Tôi không thấy có sự cách biệt nào giữa vị tướng với người lính: Rồi anh kể lại, sáng hôm nay khi lội dọc suối vào sở chỉ huy, đã nhìn thấy đồng chí Tổng tham mưu phó nhường ngựa cho một chiến sĩ đau chân, xách giày trong tay, cùng lội suối với mọi người.
- Quân đội chúng tôi như vậy. Quan hệ giữa chúng tôi trước hết là quan hệ giữa những người đồng chí, những người bạn chiến đấu.
Cuối buổi gặp, đồng chí nhà văn Ba Lan hỏi bằng một giọng vừa lưu luyến vừa băn khoăn:
- Các đồng chí sắp đi chiến đấu, còn chúng tôi thì sắp lên đường trở về nước. Tôi muốn đề nghị đồng chí Tổng tư lệnh cho biết, sau đây chúng tôi sẽ nhận được tin gì về Điện Biên Phủ?
Tôi trả lời:
- Hoặc là các đồng chí sẽ không nhận được tin tức gì về Điện Biên Phủ, nhưng sẽ được tin chiến thắng của chúng tôi trên nhiều chiến trường khác. Hoặc là các đồng chí sẽ được tin chiến thắng ở Điện Biên Phủ, khi đó sẽ là một chiến thắng rất to!”.
Cũng trong hồi ký, Đại tướng đã có đoạn viết rất rõ về vai trò Báo Quân đội nhân dân: “Trong Chiến dịch này, công tác chính trị đã có nhiều tiến bộ nhằm đáp ứng yêu cầu đánh lớn. Báo Quân đội nhân dân ấn hành đều kỳ ngay tại mặt trận, truyền đạt mọi chủ trương của lãnh đạo, phản ánh các trận đánh kịp thời, trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu đối với cán bộ, chiến sĩ…”.
Ba số báo mở màn
Chỉ nửa tháng sau khi Sở chỉ huy tiền phương lên hang Thẩm Púa, Báo Quân đội nhân dân đã ra số đầu tiên vào ngày 18-12-1953. Số báo đầu tiên có các bài như “Thông cáo của Đảng Lao động Việt Nam, Mừng thắng lợi đầu tiên trong mùa Đông Xuân và nhiệm vụ của chúng ta”, “Diễn biến cuộc rút lui Lai Châu về Điện Biên của địch và cuộc truy kích của quân ta”, “Tiến quân vào thị xã Lai Châu”, “Mừng Lai Châu giải phóng”, “Quân giải phóng Pa Thét Lào đại thắng trên mặt trận Thà Khẹt”…
Số báo đầu tiên chủ yếu thông tin về chiến thắng giải phóng Lai Châu, một địa bàn rất gần Điện Biên Phủ. Các bài báo đều hướng tới mục tiêu cổ vũ tinh thần phấn khởi chiến đấu của bộ đội, không hề bộc lộ ý định, chủ trương “đánh nhanh thắng nhanh” hay “đánh chắc tiến chắc”… Nhà báo Phạm Phú Bằng, người viết tới 3 tin bài trong số báo này về việc giải phóng Lai Châu cho biết, tin chiến sự được đưa từ trang 1 nối tiếp vào trang sau, có cả tin và tường thuật lẫn bình luận. Việc giải phóng Lai Châu sau mấy chục năm quân Pháp chiếm đóng có ý nghĩa vô cùng to lớn… Không những thế, sang số báo thứ hai, ra ngày 3-1-1954, tiếp tục có bài xã luận “Ý nghĩa chiến thắng Lai Châu” chỉ ra 4 ý nghĩa lớn, có đoạn: “Trước kia địch vẫn tuyên truyền Lai Châu là thủ đô của Tây Bắc. Nay mất Lai Châu địch không thể che giấu nổi thất bại của chúng”, “Tiêu diệt được quân địch rút lui ở Lai Châu về Điện Biên Phủ, chúng ta đã phá được âm mưu tập trung lực lượng của Na-va đồng thời buộc Na-va phải phân tán lực lượng ở đồng bằng lên Điện Biên…”.
Trong hai số báo đầu tiên, vấn đề cải cách ruộng đất đều được đề cập, đặc biệt có bài “Quân đội với cải cách ruộng đất” trích tham luận của Đại tướng, Tổng tư lệnh. Theo nhà báo Phạm Phú Bằng: “Cải cách ruộng đất là thông tin được hàng vạn người lính trong đại quân đón nhận, phấn khởi. Lúc này, trên chiến trường không có đài để nghe, cũng không có bất cứ báo chí nào khác nên Báo Quân đội nhân dân là kênh thông tin duy nhất cung cấp cho người lính về sự kiện cải cách ruộng đất. Những bài báo này có ý nghĩa cổ vũ họ trước giờ ra trận rất lớn”… (Còn nữa)
Ghi chép của NGUYÊN MINH
Bài 1: Lần xuất quân thứ tám