QĐND - Trong lúc giá cả tất cả các dịch vụ ngày càng tăng chóng mặt thì duy có dịch vụ viễn thông giá ngày càng rẻ, càng dùng nhiều càng rẻ. Từ chỗ xa xỉ, viễn thông đã trở thành dịch vụ bình dân. Tại sao lại có những thay đổi kỳ diệu đó? Câu trả lời đến từ một quan điểm quản lý cởi mở, được ghi trong Chỉ thị 58 của Bộ Chính trị - một chỉ thị được coi là "cây đũa thần" cho ngành viễn thông,  công nghệ thông tin (CNTT) Việt Nam.        

Một câu  quý hơn vàng

Chỉ thị trên có tên đầy đủ là Chỉ thị số 58-CT/TƯ của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

Trao đổi về tính cách mạng của chỉ thị này, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Lê Nam Thắng cho rằng quan trọng nhất là câu: “Phát huy nội lực, thúc đẩy cạnh tranh, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế phát triển viễn thông, internet”. Đó là câu mà nghĩ lại, từ nhà quản lý cho tới các doanh nghiệp đều hết sức tâm đắc. Nó là căn cứ pháp lý quan trọng để cởi trói cho doanh nghiệp, tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng, tạo ra thị trường viễn thông và internet mà trước đó chỉ là cuộc chơi độc quyền của VNPT.

Một buổi thực hành lên mạng Internet tại Trường Dân tộc nội trú của huyện Bá Thước (Thanh Hóa).   

 

 Ông Thắng cho rằng, trong Chỉ thị 58, phần dành cho hạ tầng viễn thông, internet tuy không nhiều, nhưng nhờ có tư tưởng “đột phá” nên đã tạo tiền đề cho một thời kỳ phát triển bùng nổ. Các mục tiêu như xây dựng hạ tầng, phủ sóng rộng khắp, băng thông rộng chất lượng cao, giá cước hạ… để có thể trở thành thực tế thì phải có thị trường cạnh tranh qua quan điểm quản lý cởi mở nói trên.

Giáo sư Đặng Hữu, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, nguyên Trưởng Ban chỉ đạo quốc gia về CNTT, là trưởng nhóm soạn bản dự thảo Chỉ thị 58 để trình Bộ Chính trị thông qua vào ngày 17-10-2000. Ông Hữu nhớ lại, khi đó thế giới đang có hai luồng quan điểm về chính sách với CNTT. Một số nước coi CNTT là ngành kinh tế kỹ thuật mũi nhọn có đóng góp lớn vào GDP và một số lại coi CNTT là động lực, là phương tiện để thúc đẩy phát triển đất nước. Sau nhiều thảo luận, cuối cùng nhóm soạn thảo đã chọn đi theo quan điểm thứ hai bởi chỉ như vậy mới đặt đúng tầm quan trọng của CNTT.

Từ quan điểm coi CNTT là động lực và phương tiện phát triển kinh tế, Chỉ thị 58 đã có những đột phá về tư duy quản lý, chuyển từ cách “quản lý tới đâu thì cho phát triển tới đó” sang “quản lý phải theo kịp sự phát triển”; yêu cầu mở cửa thị trường viễn thông, internet cho doanh nghiệp tư nhân và kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài tham gia; coi ứng dụng CNTT là công cụ thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hóa các ngành kinh tế. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài sau đó đã ca ngợi, tỏ rõ sự quan tâm và đầu tư vào thị trường Việt Nam bởi chính sách về CNTT của ta rất đúng đắn. Việc Intel vừa khánh thành Nhà máy sản xuất chíp lớn nhất thế giới đặt tại Việt Nam, trị giá một tỷ USD được coi là một “lá phiếu” đầy sức nặng, thể hiện sự tín nhiệm của tập đoàn công nghiệp CNTT hàng đầu thế giới đối với môi trường đầu tư, cũng như các chính sách về CNTT của Việt Nam.

Chỉ thị 58 với những định hướng đúng cũng đã giúp ngành viễn thông, CNTT của Việt Nam đi ngay vào công nghệ hiện đại, nên dù đi sau vẫn theo kịp tốc độ phát triển của thế giới. Xã hội Việt Nam, người dân Việt Nam được hưởng các công nghệ hiện đại nhất như 3G.

Từ chỗ chỉ có một mình VNPT, đến nay thị trường Việt Nam đã ghi nhận tới 8 doanh nghiệp kinh doanh viễn thông, nở rộ nhiều doanh nghiệp kinh doanh internet, doanh nghiệp phần mềm, cung cấp nội dung số. Hiện Việt Nam cũng đã có hai tập đoàn kinh tế lớn hoạt động trong lĩnh vực viễn thông là Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) và Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel). 

Viễn thông, CNTT ngược cơn bão giá 

Những thay đổi tư duy quản lý đó đã thể hiện tác động rất rõ với lĩnh vực viễn thông và internet. Sự tham gia thị trường viễn thông của nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là của Viettel, đã thúc đẩy sự cạnh tranh mạnh mẽ trong lĩnh vực này, khiến các doanh nghiệp phải luôn đổi mới, mở rộng vùng phủ sóng, nâng cao chất lượng dịch vụ và hạ giá thành.

Từ chỗ điện thoại là thứ xa xỉ, dành cho người giàu, đến nay, Việt Nam đã nằm trong top 20 nước có tỷ lệ người dùng điện thoại và internet cao trên thế giới. Điện thoại và internet tốc độ cao đã được phủ rộng tới tận vùng sâu, vùng xa, một điều mà nhiều nước phát triển hơn chúng ta vẫn chưa thực hiện được. Vì giá ngày càng rẻ nên mọi người dân Việt Nam đều có cơ hội sử dụng điện thoại và internet. Trong lúc giá các dịch vụ thiết yếu khác như điện, nước… đều tăng cao mà vẫn thiếu để dùng, thì giá cước viễn thông lại theo chiều ngược lại, luôn luôn giảm, càng sử dụng nhiều giá cước càng rẻ, với rất nhiều gói dịch vụ phong phú.

Nhờ hạ tầng viễn thông, CNTT phát triển nên việc ứng dụng CNTT đã trở nên thuận lợi hơn. Hầu hết các công sở đều đã có máy tính, nối mạng internet, nhiều cơ quan nhà nước đã có cổng thông tin điện tử. Ứng dụng CNTT đã tạo nên hiệu quả rõ rệt, nhất là đối với các ngành tài chính, ngân hàng, thuế, hải quan…Đào tạo nhân lực CNTT đã phát triển rất nhanh, từ chỗ chỉ có vài trường đến nay có gần 400 trường đào tạo CNTT. Chất lượng đào tạo ngày càng được nâng lên.

Tất nhiên bên cạnh những thành công, cũng có những mục tiêu mà Chỉ thị 58 đặt ra vẫn chưa đạt được. Ngành công nghiệp phần mềm chưa đáp ứng được chỉ tiêu đạt 500 triệu USD vào năm 2005 (mục tiêu này đến năm 2007 mới đạt được). Công nghiệp phần cứng vẫn còn rất yếu, chủ yếu là nhập linh kiện về lắp ráp và làm những công đoạn gia công giá trị thấp. Ứng dụng CNTT là một trong những trọng tâm của Chỉ thị 58 nhưng kết quả triển khai không như mong đợi, nhất là ở khu vực Nhà nước. Sự thất bại của Đề án 112 là một ví dụ điển hình. Các chuyên gia cho rằng, nguyên nhân chính là do nhận thức của các cấp về CNTT vẫn còn chưa đủ tầm và ở nhiều nơi vẫn chưa vào cuộc thực sự.

Bài, ảnh: Hồ Quang Phương