Xếp bút nghiên lên đường chiến đấu

Trong những năm cuối thập kỷ 60, đầu thập kỷ 70 của thế kỷ trước, hưởng ứng lời kêu gọi của đất nước, bao thế hệ thầy và trò Trường ĐHBK HN cùng với hơn 10.000 sinh viên các trường đại học ở Hà Nội lên đường nhập ngũ, hình thành nên một thế hệ sinh viên thủ đô xếp bút nghiên lên đường chiến đấu.

“Thanh niên lên đường thời đó như là chuyện tất nhiên. Những câu hát “Nếu có những chàng trai chưa từng qua sóng gió, nếu có những chàng trai chưa từng vượt qua nhiều thử thách gian lao, có lẽ nào xứng với tình em...”, trong bài Nhổ neo ra khơi, của nhạc sĩ Hoàng Vân thôi thúc chúng tôi lên đường ra trận ngay từ trên ghế nhà trường, bác Phạm Gia Nghi, thế hệ đầu tiên ra trận (1965) nhớ về “thời hoa lửa” hơn nửa thế kỷ trước.

Những kỷ niệm một thời hoa lửa ùa về trong họ.

Bác Nghi kể: Hồi ấy một nửa số sinh viên của trường (300 kỹ sư) khóa 6, thuộc các khoa: Cơ khí Luyện kim, Xây dưng, Hoá, Điện và Điện tử (VTĐ) xếp bút, lên đường ra trận. Chúng tôi hồ hởi hòa cùng 300 kỹ sư, cử nhân của Đại học Nông Nghiệp Hà Nội và Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội) lên đường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Từ đó đến năm 1969, năm nào cũng có hàng trăm cán bộ, giảng viên, sinh viên ĐHBK HN xếp bút nghiên lên đường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.  

“Chúng tôi được sống với “Hà Nội thời đạn bom”, còi báo động từ Nhà hát Lớn thành phố ngày nào cũng kéo nhiều hồi còi báo động máy bay Mỹ vào đánh phá, khi là Cầu Long Biên, lúc là Đông Anh, Yên Viên... lúc đó các trường học và người Hà Nội phải thực hiện sơ tán triệt để, người ở lại trong thành phố chỉ còn là tự vệ trực chiến và công nhân trong các nhà máy không di dời được. Trường ĐH BK HN cũng đã sơ tán lên vùng rừng núi của tỉnh Lạng Sơn. Chỉ riêng sinh viên khóa 6 được ở lại trường để học nốt năm cuối cùng, gấp rút hoàn thành chương trình đào tạo, sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước, bác Nghi kể.

Năm 1965, là đỉnh cao của thời kỳ động viên sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, nên mặc dù chưa bảo vệ đồ án tốt nghiệp, chúng tôi vẫn được công nhận tốt nghiệp và được Đảng, Nhà nước, Quân đội, Thành phố Hà Nội thực hiện “Lệnh gọi ra phục vụ tại ngũ” lần đầu tiên, với số lượng đông như một cuộc Tổng động viên các kỹ sư, cử nhân, những trí thức trẻ của Thủ đô Hà Nội lên đường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, đáp ứng yêu cầu cấp bách xây dựng quân đội, làm chủ khoa học kỹ thuật quân sự, tại tất cả các Quân khu, Quân chủng, Binh chủng và trên khắp các mặt trận, phục vụ cuộc Chiến tranh hiện đại chống Mỹ, cứu nước.

Ngay trong đêm nhận “Lệnh gọi ra phục vụ tại ngũ”, chúng tôi được chia thành nhiều đại đội, hành quân về các trường sĩ quan khác nhau. Đại đội chúng tôi hành quân qua Cầu Long Biên, về Trường Sĩ quan Hậu cần (nay là Học viện Hậu cần), ở Ngọc Thụy, Gia Lâm (nay là quận Long Biên) Hà Nội. Đi trên cầu Long Biên, chúng tôi lại liên tưởng về Trung đoàn Thủ đô năm 1946 đã rút quân qua gầm cầu này, trong đêm tối giá lạnh và đầy hiểm nguy, để trong kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp đã làm nên những chiến công hiển hách. Phải chăng mối duyên tình đưa chúng tôi hành quân qua cây cầu Long Biên lịch sử đã mách bảo, hứa hẹn: “Thế hệ chúng tôi sẽ đi tiếp con đường làm nên những chiến công quả cảm của thanh niên Hà Nội khi xưa”, chàng sinh viên Phạm Gia Nghi năm xưa nhớ lại.

Còn với bác Nguyễn Đức Chiêu, thế hệ sinh viên năm 1970, thì đêm rời Hà Nội lên đường chiến đấu là 1 đêm nô nức khí thế. Bác Chiêu kể, đêm đó từng tốp sinh viên tập trung ở ga, quen biết nhau hết nên chuyện trò cười nói suốt đêm không ngủ, hành quân về Thanh Hóa.

Trí tuệ Bách khoa

Hồi đó, nhập ngũ đông nhất là sinh viên các trường Bách khoa, Tổng hợp, Nông nghiệp, Xây dựng, Kinh tế kế hoạch (nay là Kinh tế quốc dân). Có nhiều người là giảng viên, có người mới vào trường, có người thì học xong năm thứ nhất, nhưng cũng có người sắp tốt nghiệp, chuẩn bị đi tu nghiệp nước ngoài. Tất cả đều được đưa đi huấn luyện và cuối đợt huấn luyện, sau khi phân loại là cán bộ, sinh viên trường nào, họ được xếp vào binh chủng cho phù hợp: Bách khoa thì vào pháo binh, thông tin; sinh viên Y thì vào quân y; Mỏ địa chất vào công binh; Kinh tế, Tổng hợp vào bộ binh… Nhưng phần đông sinh viên được biên chế vào các đơn vị chiến đấu như các trung đoàn 95, 101, 18 của Sư đoàn 325; 338; 308, trực tiếp tham chiến ở mặt trận Bình - Trị - Thiên.

Các thế hệ sinh viên Bách khoa xếp bút nghiên lên đường chiến đấu tề tựu về ngôi trường xưa.

Lớp bộ đội sinh viên ấy có mặt trên khắp trận tuyến, Chiến dịch Đường 9 Nam Lào, đánh B52 và C130, bảo đảm giao thông vận tải cho Đoàn 559 (1970-1971); Chiến trường Quảng Trị, Thành Cổ 81 ngày đêm (1972), đánh trả máy bay Mỹ trong đó có B52, F111...trong 12 ngày đêm tháng 12-1972, bảo vệ Hà Nội-Hải Phòng-Thanh Hoá.... Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Hồ Chí Minh, Giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống nhất nước nhà 30-4-1975.

Bác Phạm Gia Nghi, đồng tác giả các công trình đèn rùa cho xe ô tô vượt Trường Sơn, tránh máy bay Mỹ; đường ống dẫn xăng dầu vượt Trường Sơn; xe phá bom từ trường; cano phá thủy lôi phong tỏa Hải Phòng... tự hào chia sẻ: Những sinh viên Bách khoa đã dùng trí tuệ của người Việt Nam đương đầu với khoa học hiện đại của Mỹ. Bách khoa đã đáp ứng được yêu cầu của xã hội, đã đào tạo ra số kỹ sư đáp ứng được cuộc chiến đấu đánh thắng giặc Mỹ trên tất cả các mặt trận.

Hoàn thành khóa đào tạo sĩ quan 3 tháng, “Đại đội Kỹ sư” của kỹ sư Nghi được chia ra từng nhóm, tỏa đi muôn nơi, đến những điểm nóng nhất, cần thiết nhất, mỗi người một nhiệm vụ phục vụ quân đội, phục vụ chiến trường. Là một trong những kỹ sư vinh dự được giao đương đầu với cuộc chiến tranh kỹ thuật hiện đại của giặc Mỹ, được tham gia nhiều nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của quân đội, trong đó phải kể đến chiếc “Đèn Rùa” cho xe ô tô vượt Trường Sơn mà máy bay Mỹ không phát hiện được trong suốt thời kỳ từ năm 1967 đến năm 1975, do ông làm chủ nhiệm công trình, đã đáp ứng nhiệm vụ chiến lược là “vận tải quân sự bằng xe cơ giới”, giảm bớt tổn thất về hàng hoá, phương tiện và sự hy sinh của bộ đội chuyển quân qua Trường Sơn vào chiến trường miền Nam.

Bác Phạm Gia Nghi cùng kỷ vật "Đèn Rùa".

Còn chàng sinh viên năm thứ 2 Khoa Luyện kim, Nguyễn Đức Chiêu lại được tham gia vào Bộ tư lệnh phòng không, trực tiếp bắn rơi B52 tại Hồ Ngọc Hà, tham gia chương trình đánh lừa tên lửa Strike của Mỹ.

“Áp dụng kiến thức học từ trường vào thực tế, sinh viên Bách khoa dùng kiến thức khoa học kỹ thuật để đánh chiến tranh điện tử của Mỹ ở miền Bắc. Không quân Mỹ đánh vào miền Bắc, dùng thiết bị gây nhiễu rãnh đạn, thời gian đầu 2 trung đoàn Hà Nội đều bị mất điều khiển không thể bắn rơi máy bay Mỹ, tên lửa phóng lên một là rơi xuống đất, hai là vượt tầm không thể lái được trúng mục tiêu. Chúng tôi cùng chuyên gia Nga tìm cách chống nhiễu, nó sinh ra cái gì mình đều tìm cách để chống lại”, cựu chiến binh Nguyễn Đức Chiêu nhớ lại.

Bằng kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn, lòng quả cảm, trắc thủ góc tà Nguyễn Đức Chiêu đã “nhìn xuyên” dải nhiễu, bắt B.52 "gục" trên hồ Hữu Tiệp. Có lẽ đêm 27-12-1972 sẽ không bao giờ phai nhạt trong trí óc của nhiều người người dân Hà Nội lúc đó và cũng ít người biết, trong chiến công xuất sắc này, 3 trắc thủ của kíp bắn đều là sinh viên Đại học Bách Khoa Hà Nội.

Trong số hơn 800 đồng chí trong kháng chiến chống Mỹ, được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, thì có tới 6 anh hùng là sinh viên Trường ĐHBK HN. Đó là Anh hùng Bùi Ngọc Dương-“dũng sĩ mở đường, anh hùng xung kích” của mặt trận Khe Sanh; Anh hùng Trần Thanh Hải, Tiểu đội trưởng, Trung đội trưởng Đại đội 6, Tiểu đoàn 371, Bộ tư lệnh Pháo binh; Anh hùng Vũ Xuân Thiều - anh hùng phi công MIG21, bắn rơi B52 trong chiến dịch 12 ngày đêm tháng 12-1972; Anh hùng Nguyễn Văn Lung-Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn kỹ thuật Tên lửa 65 trung đoàn 236 (SAM 2) bộ đội PK-KQ; Anh hùng Đào Duy Cảnh - bắn rơi máy bay B52 của Mỹ tại Trung đoàn tên lửa E238 năm 1967;  Anh Hùng Trần Thị Kim Cúc - biệt động thành, 8 lần gặp Bác Hồ, đang sống tại Hải Châu, Đà Nẵng.

Tự hào về truyền thống hào hùng của những thế hệ Bách khoa, PGS Huỳnh Quyết Thắng – Phó bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng Trường ĐHBK Hà Nội chia sẻ: Các anh đã mang theo “Trí tuệ Bách Khoa” vào trong các trận chiến đấu khốc liệt, góp phần cùng dân tộc chiến thắng sức mạnh quân sự hủy diệt của kẻ thù. Những công trình khoa học của sinh viên Bách khoa đã góp phần tô đậm thêm dấu ấn của “trí tuệ - trái tim – lòng dũng cảm của con người Bách Khoa.

Ngày hôm nay, việc giáo dục lòng yêu nước, truyền thống cách mạng, ý chí tự cường dân tộc của thế hệ cha anh, của các chú, các bác những người trực tiếp cầm súng chiến đấu, cho thế hệ trẻ đất nước hiểu về những giá trị lịch sử là hết sức quan trọng, để những giá trị ấy luôn được thế hệ trẻ kế thừa và phát huy. Những tấm gương đó mãi là lời nhắc và lời nhắn gửi tới chúng tôi và tới các thế hệ sinh viên về trách nhiệm bảo vệ tự do và độc lập non sông.

“Tôi rất mong sinh viên Bách khoa ngày nay có thể tiếp thu được truyền thống "hoa lửa" để mang vào thời đại. Chúng ta đang rất cần một tinh thần quyết liệt, dấn thân, thần tốc để xứng đáng với thế hệ cha, anh. Thế hệ hiện nay của các em cần tiếp bước để mang tinh thần "hoa lửa" vào thời đại mới, thời đại chuyển đổi số, đại học số, xã hội số, với sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật công nghệ”, PGS Huỳnh Quyết Thắng chia sẻ.

Bài, ảnh: KHÁNH HÀ