QĐND - Một ngày đầu xuân, chúng tôi cùng gia đình, người thân của Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Phan Thanh trở về quê hương anh - xã Nhân Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An. Sau hơn 40 năm hy sinh, liệt sĩ Nguyễn Phan Thanh đã được Đảng, Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.

Tuổi thơ ham học        

Làng quê Nhân Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An vào buổi xế chiều. Ngôi nhà cổ hiện ra trước mắt chúng tôi như gợi nhớ về thời thơ ấu của Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Phan Thanh. Anh lớn lên trong một gia đình nho học yêu nước, cha anh là ông Nguyễn Trọng Thuần. Năm 1950, Nguyễn Phan Thanh theo tiếng gọi của Đảng, lên đường nhập ngũ, tham gia đánh giặc cứu nước.

Thời nhỏ, Nguyễn Phan Thanh được ăn học chu đáo, luôn có hiếu với cha mẹ, sớm gánh vác việc nhà thay anh trai là Nguyễn Bá Đàn, tức Lý Văn Sáu (nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Phát thanh và Truyền hình Việt Nam, Tổng biên tập Đài Truyền hình Việt Nam). Anh vừa học, vừa chăm lo phụng dưỡng mẹ và tham gia hoạt động cách mạng. Phan Thanh học giỏi, biết nhiều ngoại ngữ và say mê khoa học. Nhiệm vụ nào anh cũng hoàn thành xuất sắc. Hình ảnh Phan Thanh, một cán bộ quân đội ham học hỏi, nghiên cứu, kiến thức rộng và biết nhiều tiếng nước ngoài được nhân dân địa phương nể trọng.

Bác Nguyễn Thọ Hưu, ở làng Yên Nhân, xã Nhân Thành còn nhớ như in: Năm 1952, anh Thanh tham gia quân đội, làm công tác địch vận dẫn đoàn hàng binh Âu-Phi của Pháp từ Thừa Thiên - Huế về qua làng để giao hàng binh tại đình Chợ Mọ. Dáng người anh bé nhỏ lọt thỏm giữa đám hàng binh to kềnh, nhưng với phong cách dứt khoát, thông thạo ngoại ngữ, anh khiến đoàn hàng binh nghe răm rắp…”.

Bà Phan Thị Quý cùng người thân viếng mộ Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Phan Thanh tại nghĩa trang quê nhà.

 

Bác Ngô Xuân Đức, 83 tuổi, ở xóm Đông Yên, xã Nhân Thành nhớ lại: Anh Thanh là người giỏi bơi lội; có năm đoạt giải nhất huyện môn bơi ếch tại sông Dinh. Khi đang đi học, anh còn nghiên cứu làm được cả khinh khí cầu ở trường học và mang về tặng thiếu nhi trong làng…

Tấm gương say mê khoa học và lòng dũng cảm

Chiến công của anh hùng liệt sĩ Nguyễn Phan Thanh gắn liền với công việc nghiên cứu, giảng dạy của những nhà giáo quân sự trong những năm tháng chiến tranh: Cuộc chiến thầm lặng, dũng cảm và trí tuệ chống lại bom đạn Mỹ. Năm 1956, anh được điều từ đoàn cán bộ cải cách về Trường Cán bộ hậu cần làm giảng viên bộ môn đạn. Là giảng viên trẻ có nhiều triển vọng, với vốn ngoại ngữ tốt và lòng ham mê nghiên cứu khoa học, anh vinh dự được giao nhiệm vụ biên soạn giáo trình giảng dạy môn thuốc phóng, thuốc nổ, đạn và được phân công giảng dạy chính môn học này. Mỗi khi nhà trường tiếp nhận các loại đạn của Mỹ mang từ chiến trường ra, anh lại cùng cộng sự miệt mài tháo gỡ để nghiên cứu. Nguy hiểm như loại đạn hóa học Smoke WP 75mm, còn gọi “đạn khói phốt pho trắng”, là loại đạn mang hóa chất, khi tiếp xúc với không khí dễ bùng cháy, tỏa khói dày đặc, che lấp các mục tiêu, làm cháy da người, vô cùng nguy hiểm,  Nguyễn Phan Thanh cũng “giải phẫu” được. Anh còn tìm tòi nghiên cứu và đề xuất sáng kiến tháo gỡ ngòi nổ bằng một thùng nước ấm (khoảng 40-50 độ C), rồi khoan hai lỗ để hút hết thuốc ra mà vẫn giữ nguyên vỏ đạn để nghiên cứu…

Cuối năm 1968, giữa lúc chiến tranh phá hoại cường độ cao bằng không quân và hải quân của địch ra miền Bắc, Nguyễn Phan Thanh cùng các đoàn nghiên cứu của Trường Đại học Kỹ thuật Quân sự có mặt tại nhiều khu vực địch đánh phá ác liệt để nghiên cứu. Hơn ai hết, các nhà khoa học quân sự cần phải nghiên cứu và biết rõ cấu tạo, tính năng kỹ, chiến thuật của từng loại bom, đạn mà kẻ địch đang sử dụng bắn phá vào các công trình quân sự và dân sự của chúng ta, gây thiệt hại lớn.

Đạn pháo trên tàu chiến của địch bắn vào Vĩnh Linh, Quảng Trị… là loại đạn pháo 127mm, lúc đó ta chưa có tài liệu, nhưng phải tìm mọi cách nghiên cứu để hạn chế thiệt hại. Nhìn cảnh chết chóc đau thương tàn khốc của bộ đội và nhân dân, Nguyễn Phan Thanh thấy lòng quặn đau. Việc vận chuyển quả đạn 127mm chưa nổ về nhà trường để nghiên cứu vô cùng khó khăn, nguy hiểm, cái chết có thể xảy ra trong gang tấc. Khu vực Đồng Sáo, Vĩnh Yên là nơi nhà trường tiến hành nghiên cứu các loại vũ khí, đạn dược của địch những năm 1967-1969 được chọn làm nơi để đạn. Hàng loạt câu hỏi được các nhà khoa học, các thầy giáo đặt ra: Viên đạn này giữ chậm bao nhiêu, sức công phá thế nào? Là loại đạn nổ tức thời hay xuyên nổ? Thuốc nổ trong quả đạn là loại gì, trọng lượng bao nhiêu, đế dài hay vuông? Ngòi đạn nằm ở đâu, ngòi nổ hay ngòi đáy...?

Ông Phan Văn Thanh, Chủ tịch UBND xã Nhân Thành và các em học sinh trước tấm bia ghi danh các liệt sĩ của xã, trong đó có Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Phan Thanh.

 

Nhận rõ mối nguy hiểm của loại vũ này của địch, nếu không nhanh chóng hóa giải, nhân dân và các đồng đội ở vùng chiến tuyến, chiến trường còn chịu nhiều tổn thất, Nguyễn Phan Thanh quyết định nhận phần trách nhiệm về mình, đồng nghĩa với chấp nhận hy sinh để trả lời cho nhiều câu hỏi. Anh cùng tổ bộ môn và đồng đội tự đào cho mình một chiếc hầm nghiên cứu đạn, với các dụng cụ đơn giản, thô sơ. 

Nơi tiến hành nghiên cứu quả đạn là một địa điểm xa dân, viên đạn được đặt dưới một hố sâu dưới lòng đất. Công việc nghiên cứu tiến hành bí mật.

Ngày 19-4-1969, công việc tháo mở viên đạn 127mm để nghiên cứu đi vào giai đoạn quyết định. Chỉ còn 1/4 vòng nữa là mở được quả đạn. Nguyễn Phan Thanh đề nghị tất cả anh em đồng đội rời khỏi căn hầm, một mình tình nguyện ở lại để thực hiện phần công việc nguy hiểm nhất. Đồng đội, không ai muốn rời anh, nhưng Nguyễn Phan Thanh quyết định giành phần nguy hiểm về mình. 

16 giờ 30 phút, ngày 19-4-1969, một tiếng nổ lớn và ánh chớp phát ra từ căn hầm. Thân thể anh quyện hòa vào đất trời, sông núi, nhưng quả đạn đầu nổ từ trường của địch đã bị hóa giải. Nguyễn Phan Thanh hy sinh là để bớt đi biết bao nhiêu máu xương và những công trình quân sự của ta bớt bị quân thù phá hoại bằng loại đạn ác độc này. Chiếc búa, một trong những dụng cụ tháo gỡ quả đạn pháo 127mm của Nguyễn Phan Thanh trở thành kỷ vật thiêng liêng, gần đây được một gia đình trân trọng trao lại cho Học viện Kỹ thuật Quân sự.

Thầy giáo Nguyễn Xuân Anh, là người được chứng kiến sự hy sinh anh dũng của đồng chí mình đã viết bài thơ để truyền lại cho lớp thế hệ học viên và các em học sinh sau này:

Anh mất rồi, tiếng nổ xé lòng tôi/Sau chớp lửa, thân anh không còn nữa/Vĩnh biệt anh giữa mùa xuân hoa nở/Trận địa còn đây, cây cỏ vẫn xanh màu…

Bà Phan Thị Quý, vợ liệt sĩ Nguyễn Phan Thanh nghẹn ngào lật giở tấm ảnh của chồng và những lá thư anh viết gửi về gia đình, căn dặn vợ con… Bà kể: Anh Thanh rất quan tâm tới gia đình, thương yêu vợ con… Một lần, anh về tranh thủ, 3 bố con đèo nhau trên chiếc xe đạp, thấy con kêu rét, anh động viên và hứa sẽ tự may tặng các con áo ấm.

Cách đây ít lâu, khi chúng tôi đến làm việc tại Học viện Kỹ thuật Quân sự, Trung tướng Vũ Văn Luận, Chính ủy Học viện cho biết: Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Phan Thanh là tấm gương sáng để các thế hệ cán bộ, giáo viên, học viên noi theo. Tinh thần xả thân vì khoa học của anh hun đúc trong tâm hồn các thế hệ học viên, sinh viên của học viện lòng khát khao nghiên cứu khoa học, hăng say sáng tạo, chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức, ứng dụng có hiệu quả trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, huấn luyện và sản xuất…

Ông Phan Văn Thanh, Chủ tịch UBND xã Nhân Thành, huyện Yên Thành tự hào nói: Gia đình liệt sĩ Nguyễn Phan Thanh có công đóng góp lớn trong thành tích chung của địa phương… Đặc biệt, sự hy sinh anh dũng của anh là tấm gương sáng giáo dục truyền thống cho thế hệ hôm nay và mai sau.

Chiều dần buông, không gian tại Nghĩa trang liệt sĩ xã Nhân Thành như trầm xuống. Rất đông cán bộ Đảng ủy, UBND, Hội Cựu chiến binh xã và học sinh Trường THCS xã Nhân Thành cùng người thân, gia đình của Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Phan Thanh đến thắp hương thành kính, tưởng nhớ công ơn…

Ông Nguyễn Tiến Lợi, Chủ tịch UBND huyện Yên Thành tự hào: Liệt sĩ Nguyễn Phan Thanh đã góp phần tô thắm truyền thống quê hương “đất nghèo sinh những anh hùng”. Nhân dân Yên Thành có truyền thống yêu nước, đoàn kết, cần cù lao động, hiếu học. Năm 1997, huyện được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.

Những người lính trên mặt trận khoa học kỹ thuật quân sự vẫn đang tiếp bước thế hệ cha anh, trong đó có chiến công của Anh hùng liệt sĩ, Trung úy Nguyễn Phan Thanh.

Bài và ảnh: Nguyễn Điền - Phan Anh