 |
|
Xác máy bay Mỹ rơi trên đồng ruộng.
|
Người xứ Thanh có một câu nói rất ngộ: “Đánh Mỹ đến Còng”. Còng là huyện lỵ của huyện Tĩnh Gia. Ngày trước còn là phủ Gia bao gồm cả huyện Quảng Xương. Địa danh Còng tôi chưa có dịp tìm hiểu nên chưa rõ lắm. Song cái câu : “Đánh Mỹ đến Còng” nó gợi cho tôi một chú lính vừa tốt nghiệp phổ thông trung học những chiều nghĩa rất lạ. Đánh giặc đến còng gập lưng xuống, nghĩa là già, đánh đến già, đánh đến chết mà chưa thắng Mỹ vẫn đánh. Hay là chỉ đánh đến thị trấn Còng, thế thôi. Có một điều nói ra không ai cãi lại là qua hết Còng ta sẽ gặp một vùng bao la đất ngập mặn với nước vàng xỉn, lơ thơ sú vẹt, một vài bờ phi lao còi cọc. Đôi bờ kè rón rén, ven ven bờ nước khoanh lấy các cồn cát vàng. Quốc lộ 1 mớm từ thị trấn Còng vào giáp xứ Nghệ giống như một sợi dây thừng ngâm nước biển lâu ngày đen bủng, đứt nối. Trên đoạn đường bốn năm cây số có hàng loạt cầu: Cầu Đồi I, cầu Đồi II, cầu Trúc Lâm, cầu Giảng Tiến, cầu Ba, cầu Vằng, cầu Hổ, cầu Khe Lau giáp Nghệ. Có một điều rất lạ trong khi các cầu khác bị đánh hỏng phải đi vòng hoặc đi ngầm, cầu Mới (tức cầu Ba) - nơi gặp nhau của ba tuyến đường giao thông: đường bộ, đường sắt, đường sông (kênh Than) - mấy ngày qua bị đánh dữ dội, đất, đá, cát dồn lên thành cồn thì cầu Vằng, cầu Hổ còn khá nguyên vẹn. Cầu Vằng giáp ga Khoa Trường, còn cầu Hổ nơi vào ngã ba đường rẽ ra Hải Yến, Hải Thượng, bán đảo Nghi Sơn, nơi có bến ra đảo Hòn Mê. Giáp Tết, Trung đoàn phòng không 256 có lệnh ra đồng bằng sông Hồng, cắt tiểu đoàn chúng tôi về trung đoàn bộ binh tăng cường 57, một trung đoàn đông quân, nhiều súng pháo ngang một lữ đoàn, sẵn sàng đánh địch đổ bộ. Dự kiến địch sẽ đổ bộ thủy quân lục chiến và bộ binh với lực lượng hộ chiến hùng hậu gồm tàu chở máy bay ngoài khơi, các tuần dương hạm, khu trục hạm áp sát đảo Mê, cắt đứt và chiếm giữ vùng yết hầu Nam Thanh - Bắc Nghệ (nam Thanh Hóa, bắc Nghệ An). Đại đội tôi được lệnh độc lập về bảo vệ cầu Hổ. Vì vẫn là lính mới cho nên tôi không biết đại đội hai, đại đội ba ở chỗ nào, có hiệp đồng chiến đấu với đơn vị tôi hay không. Chúng tôi tác nghiệp trận địa sát bờ sông. Lại đúng là đường đoàn thuyền nan vận tải thanh niên xung phong Thanh Hóa từ kênh Than qua đây. Đêm tôi nằm trong lán nghe xôn xao tiếng mái chèo vạt nước con thuyền đi sát ngay đầu lán. Tiếng con gái í éo, rồi tiếng hò ghẹo lính:
Ơ! hò. Thuyền than mà đậu bến Than.
Thương anh vất vả cơ hàn thương em thương ơ! hò.
Tôi bị dựng dậy, đẩy ra bờ công sự đứng vận hò. Lời qua, lời lại cánh lính đuối dần. Giọng một o lanh lảnh:
Mẹ anh ăn dở phải gừng
Nên anh hò hát nửa chừng anh thôi.
Không chần chừ, tôi giở bài tủ ra:
Anh nghe em nhức đầu chưa đã
Anh băng ngàn bẻ lá về xông
Rồi mai anh vợ em chồng
Khi mồ hôi anh quạt
Khi gió lồng anh che
Ơ! hò!!!
Tiếng mái chèo vạt nước nhanh hơn, hàng chục câu hò từ những khuôn miệng thần diệu bay ra, tan vào nước đêm. Một cậu quân khí đến bên ấn vào tay tôi một vật lạ. Tôi hỏi:
- Cái gì đấy.
- Củ đậu đấy.
- Lau sạch vỏ ăn cho mát rồi còn hò đối.
Tôi tựa vào thành công sự thở nhẹ:
- Họ đối thông minh lắm. Vận nhanh đúng ý, đè lên ý của mình.
Tôi nhìn thấy một tay đàn ông to cao, giọng vang đứng sau mấy o vận hò giúp.
- Cậu thấy thơ của hắn không? Hay như thơ trên báo.
- Này tớ nghĩ cái hò này nó làm nên sự thông minh, tài ứng đối của người dân xứ Thanh. Chính nó góp phần làm ra ông Trạng Quỳnh thông thái, nghịch ngợm đủ điều và rồi đến lượt cụ trạng độc đáo ấy sáng tạo nên một phần tính cách riêng của người xứ Thanh.
Buổi sáng chúng tôi chuẩn bị trong lán, sửa sang công sự chuẩn bị đón Tết. Mấy anh em đánh nhiều cây Lưỡi Hổ về trồng quanh lán trinh sát, đo xa. Có cậu còn bê về cả cụm cây lá nhỏ, mép lá có răng cưa mọc nhiều trên đồi Trúc Lâm về trồng bên cửa lán. Mấy hôm trời mướt mát làn mưa bụi, cây phơi lá non. Trong các nách lá đã hé những bông hoa nhỏ, trắng tinh khiết. Tôi ra quốc lộ 1 ngó vào cột trụ cây số. Cột cây số ghi: Hà Nội 200km. Đúng 200 cây số đến nơi, chúng tôi đánh trận đầu và bây giờ nghiễm nhiên trở thành anh lính cựu, thành anh lính chiến.
Gần trưa, mấy tốp máy bay A4, A6, F8 nhận ra có mình đại đội tôi trấn giữ hai cây cầu, chúng sà xuống thấp cắt bom, bắn rốc-két. Đại đội tôi đĩnh đạc bắn trả. Hai chiếc A4E còn phóng cả tên lửa không đối đất Bun-pớp. Hai chiếc F8 rà sát mặt đồi, bay dọc sông trinh sát đoàn thuyền nan. Chúng phát hiện một tốp thuyền giấu mình trong đám sú vẹt bên bờ kênh Than, gần đại đội chúng tôi. Hai chiếc F8 rít lên như còi, đảo cánh liên tục phóng rốc-két. Từng chùm rốc-két 70mm nổ giật giật, một chiếc thuyền nan bị trúng đạn, những tấm liếp che làm mui thuyền bay tung lên liệng đi, liệng lại mãi mới chịu rơi xuống.
Cậu quân khí kêu nhỏ:
- Máy bay nó đánh trúng thuyền nan mấy o hò với ta đêm qua.
Tôi giơ tay chỉ mục tiêu, chiếc F8 đảo cánh bay thấp hướng về trận địa, tôi hô lớn:
- Máy bay đánh thuyền nan, bay thẳng vào trận địa.
Anh Dương phất cờ, bốn khẩu pháo bắn góc tà thấp, chùm đạn chói sáng phía đầu máy bay, nó loạng choạng quay ra hướng biển.
Chiều muộn, anh Dương bảo tôi đi với anh đi trinh sát địa hình khu vực Nghi Sơn, Hải Thượng, Hải Yến, Giảng Tiến phục kích đánh máy bay địch đón mấy ngày nghỉ Tết. Tổng thống Mỹ Giôn-xơn cho ngừng ném bom để nắn gân Bắc Việt. Con đường rắc rối khó đi, chiếc Gaz 63 ục uỵch, lắc lư. Tôi nhìn thấy một chiếc xe Giải Phóng Trung Quốc còn mới nhưng hình như nó vô chủ. Vào tới nơi thấy quanh chiếc Giải Phóng nhiều đạn pháo biển nổ gần. Cả sáu lốp bị mảnh pháo chém nát, két nước bị vỡ, cửa xe thủng lỗ chỗ. Tôi nói với đại đội phó Dương:
- Đúng cái thằng AD6 phát hiện cái Giải Phóng này. Nó vừa bắn rốc-két vừa chỉ điểm cho pháo tàu Khu trục hạm, Tuần dương hạm ngoài biển bắn vào.
- Cái thằng khó trị ấy mình mệt với nó.
Anh Dương giục:
- Đi thôi! Chủ quan loanh quanh nói dại thằng chỉ điểm nó nhìn thấy a lô ra biển, nó cho bố con xơi một chầu pháo thì khiêng nhọc.
Chiếc Gaz 63 cướp đường lao về phía Nghi Sơn. Anh Dương vỗ vai cậu lái xe bảo cho xe nép vào ta luy đường, đứng dưới bóng mấy cây phi lao già khụ, cành lá lòa xòa. Một vùng biển bao la trải ra trước mắt chúng tôi. Vùng biển Nghi Sơn những ghềnh đá sóng đập vào trắng xóa. Đôi ba chiếc mảng đánh cá chầm chậm ra khơi. Dải mây đen mờ phía xa nơi biển vồng lên. Anh Dương đập tay lên vai tôi:
- Chúng mình phải quay về ở nhà có lệnh mới.
Tôi đứng im.
Anh lên tiếng:
- Mình biết cậu đang xúc động. Cái vụng biển, bán đảo Nghi Sơn, Hòn Mê kia nữa sau này hòa bình xây một cảng biển thì hay lắm đấy cậu ạ!
Trước ngày Mỹ ngừng ném bom vào mấy ngày Tết Việt Nam, tuyến đường từ Còng tới khe nước lạnh vạch địa giới xứ Nghệ - xứ Thanh các đơn vị thanh niên xung phong Thanh Hóa đã dồn về đông nghịt. Toàn là các cô gái trẻ nghịch ngợm, thông minh và gan góc. Xe pháo chúng tôi rồng rắn từ cầu Hổ ra cầu Đồi bị giữ lại nhiều lần. Một cô bé dáng cao bám vào thành xe đu lên đứng tì ngực vào thành xe véo von:
Cầu Hang, cầu Hổ, cầu Vằng.
Trong ba cầu ấy có chàng bay sao
Một cậu trinh sát nhanh tay nắm lấy hai cổ tay thon, sát hai mắt vào mặt cô:
- Để anh bồng em vào thùng xe với các anh.
- Không vô được. Em phải xuống làm đường chứ.
- Ba ngày Giôn-xơn hắn ngừng ném bom mình đi được cả vạn chiếc xe chở hàng.
- Thế cho anh hôn em nhé.
Cô ngửng mặt lên kiêu hãnh, môi cong lên:
- Anh có thể hôn.
- Tất cả các anh trong xe có thể hôn em! Chỉ cần một điều kiện: Các anh phải là người dũng cảm!
Cả xe nhao nhao:
- Tất cả các anh đủ tiêu chuẩn rồi em ơi.
- Lỗ vốn to rồi.
Cô đứng nhô hẳn khuôn ngực đẹp đẽ lên thành xe ra vẻ nghiêm giọng thêm một tiêu chuẩn phụ:
- Anh mô biết hò Thanh Hóa sẽ được hôn em nhiều hơn…
Tiếng reo nổi lên ngay. Khi ấy tiếng anh Nhung át tất cả:
- Các cậu làm cái trò gì đấy? Buông con gái người ta ra.
Cậu trinh sát sợ quá buông tay cô gái. Cô nhảy xuống đường ngã dúi dụi.
Tiếng rên rỉ cố nén:
- Khổ chưa suýt gãy chân em tôi rồi!
Chúng tôi triển khai trận địa trên vạt ruộng cát vàng chói, thấp thoáng mấy cây kè (một loại họ cọ). Nền cát vàng sậm đào công sự nhanh nhưng ngụy trang thì vất vả. Vài cụm cỏ nước vóng vớt chùm hoa, bật gốc lên chỉ một tí là héo dẹo. Trận địa chỉ cách cầu Đồi I, theo đường chim bay chưa đến 300m. Các o thanh niên xung phong bên ấy hò mớm lời chân còn chạy ra ngầm, ném đất đá sang trêu mấy đám lính trẻ bên này.
Thêm một cái Tết xa gia đình trong chiến tranh. Chúng tôi được phép trồng một số cây quanh hầm pháo và khu đồi chỉ huy, vừa ngụy trang che mắt địch vừa tạo cảnh quan. Vì là Phó bí thư ban chấp hành chi đoàn kiêm phụ trách văn hóa đối ngoại nên tôi được cùng với chính trị viên, đại đội phó vào thăm một số gia đình nơi đơn vị đặt nhà bếp, cất giấu xe… Bà con Tĩnh Gia thời kỳ này rất nghèo - quanh năm trồng một vụ khoai, một vụ lúa cát chịu hạn như lúa lốc ngoài Đồng bằng sông Hồng. Lúa gieo hạt, lên mầm, thành cây chuẩn bị làm đòng đúng kì mùa gió nắng. Dọc miền Tĩnh Gia toàn thứ cát vàng hạt to bắt nắng nhanh nóng rát. Gió Lào thổi ràn rạt. Theo tôi được biết, ở xứ Thanh Tĩnh Gia bị gió Lào hun gớm nhất. Gió hun hút tre khô, lá lúa chết trắng đồng, chỉ còn vạt kè và dứa dại, phi lao là còn xanh. Tôi đã được bà con mời một bữa khoai lang cá trích. Một đĩa quân dụng đầy cá trích luộc và một rổ khoai. Cá trích là loại cá ít tanh, ăn rất lành, cầm cả con gỡ ra ăn thật ngon.
Tổ anh nuôi vẫn mang theo xe ba con lợn. Cậu Chấn rỗ quê Hải Phòng khéo ngăn thùng xe, trên đường hành quân lợn vẫn được ăn cơm cháy nhà bếp với cá trích, cá cơm bán rất nhiều ở chợ Kho Hải Ninh gần phà Ghép. Đại đội phó Dương đồng ý phương án thịt một chú ỉn vào sáng 30 Tết, đơn vị ăn tươi, có lòng chay tiết canh. Anh nuôi gánh cơm ra trận địa, gánh luôn mấy chai rượu mua ở chợ cá và một nồi cháo lòng bốc khói nghi ngút.
Gần trưa, một tốp ba chiếc A4 bay vào. Đang ngày Giôn-xơn ra lệnh ngừng ném bom, đơn vị báo động chiến đấu. Tốp máy bay lượn một vòng, quan sát cung đường cầu Đồi, Khe Lau nối liền đỏ au, trơn tru. Bất ngờ chúng nâng độ cao, bổ nhào cắt bom. Các khẩu đội vẫn đủ quân số đánh, pháo nổ ập ình. Một quả bom cỡ 250 bảng Anh không trúng cầu mà trúng đường, ngoạm đi cả một đoạn nối vào đầu cầu. Lệnh trên đơn vị trực ban đủ quân số bảo vệ thanh niên xung phong ra sửa đường ban ngày, buộc phải thông xe. Đoàn xe vận tải qua phà Ghép đang dồn vào phía cầu Đồi dài cả cây số.
Một tin vui, đoàn cải lương Thanh Hóa đến tận trận địa biểu diễn. Toàn đơn vị trực ban cấp I, các anh chị diễn viên hát, diễn ngay trong hầm pháo. Diễn viên điểm phấn qua loa, giọng hát hay và múa dẻo. Có lẽ chúng tôi cần các anh chị có mặt ở trận địa, chỉ cần đi lại, hỏi chuyện là đã thấy vui sướng lắm rồi.
Diễn xong các anh chị sà vào các lán nói chuyện với pháo thủ. Các khẩu đội pháo, bộ phận chỉ huy, thủ trưởng đơn vị hình thành bữa cơm gia đình, có mấy món thịt lợn nhà mời các anh, các chị đón mừng năm mới.
Bút kí lịch sử của Đại tá, nhà văn ĐÀO THẮNG
Về xứ Thanh (kỳ 2)
Về xứ Thanh (kỳ 1)
Kỳ 4: Sống chết với biển