QĐND - Cuối năm 2009, cựu chiến binh Ngô Văn Học đứng bên bờ đột quỵ, phải vào Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 cấp cứu. Dạo này, sức khỏe anh đã ổn định. Bởi vậy, buổi chiều hôm ấy, khi biết hai bác cháu tôi đến thăm gia đình anh ở thôn Quảng Hội (xã Quang Tiến, huyện Sóc Sơn, Hà Nội), anh đã đi xe máy ra đầu làng để đón.

Đồng Quảng Hội mới gặt vãn. Xa xa, khói rạ lởn vởn dưới chân núi Sóc. Chợt thấy bóng một bà cụ lom khom chống gậy rẽ vào cái ngõ nhỏ phơi rặt rơm. Anh Học niềm nở giới thiệu, bà cụ chính là mẹ anh sang chơi nhà con gái út.

Vừa bước vào cổng nhà anh Học đã nghe có tiếng phụ nữ đon đả chào khách. Đấy là chị Nguyễn Thị Chững-vợ anh Học. Rời sân thóc, chị ý tứ vào nhà dưới thay áo mới rồi mới lên nhà trên cùng đứa cháu nội ríu rít tiếp khách.

Mặc dù thân quen anh Học từ lâu, nhưng đây là lần đầu tiên tôi có dịp đến thăm vợ chồng anh. Có lẽ vì vậy mà vợ chồng anh đã hàn huyên với khách đủ chuyện, trong đó có cả những dấu ấn về cuộc sống riêng tư.

Nhà bố mẹ anh Học và bố mẹ chị Chững ở kề nhau. Được hai ông bố đều là cán bộ xã vun vào, sau khi nhập ngũ một năm thì anh Học xây dựng gia đình với chị Chững. Đêm tân hôn, chàng Binh nhất Ngô Văn Học mải xem các cụ đánh tổ tôm nên lơ là việc chăn gối khiến cho cô thôn nữ Nguyễn Thị Chững suýt nữa dỗi bỏ về nhà mẹ đẻ. Sau đêm tân hôn đó, cuộc đời anh chị phải đối mặt với bao nhiêu là thử thách. Họ lấy nhau gần chục năm trời mà vẫn chưa có con. Cho mãi đến năm 1981, nhờ uống thuốc gia truyền của bà con dân tộc, chị Chững mới sinh được cậu con trai đầu lòng. Sau đó thì anh chị sinh hạ được 4 cháu, nhưng không may, cháu trai thứ mới 4 tuổi đã bị chết đuối. Đêm hôm ấy, nhận được tin con qua đời, anh Học gạt nước mắt, không dám chia sẻ với đồng đội, vì sáng sớm hôm sau đơn vị có buổi họp do anh chủ trì. Đó là năm 1987, anh Học giữ chức vụ Trưởng ban tuyên huấn Sư đoàn Khánh Khê, làm nhiệm vụ ở biên giới Lạng Sơn.

Vợ chồng anh Ngô Văn Học chăm bò.

Giờ đây, nhìn vào dáng người mảnh mai, nhỏ bé của chị Nguyễn Thị Chững, tôi thật khó tin chị có thể làm được những công việc ngoài sức tưởng tượng đến như vậy. Trong suốt thời gian dài, hơn 30 năm chồng đi công tác xa nhà, với bổn phận là dâu trưởng, chị Chững không chỉ giữ vai trò trụ cột của gia đình mà còn cùng bố mẹ lần lượt lo việc dựng vợ gả chồng cho 7 người em (5 trai, 2 gái). Hết tất bật với công việc đồng áng, chị tranh thủ cùng các em nhào đất đóng gạch và đốt được 12 lò với hơn 30 vạn viên để xây dựng 6 ngôi nhà cho 6 đứa em ra ở riêng. Sau khi lo đến đứa em cuối cùng, chị mới xin phép bố mẹ cho được ra ở riêng để tự lập cuộc sống gia đình, mà lẽ ra là con trưởng, vợ chồng chị sẽ được quyền thừa hưởng toàn bộ gia sản của ông cha để lại. Chị đã nhường toàn bộ cơ ngơi ấy cho chú em út rồi xây dựng cơ đồ trên mảnh đất ao chuôm, thùng, hố... Chồng đi vắng, một nách nuôi 3 đứa con, vào những đêm trăng thanh gió mát, vợ chồng con cái ai đó đang vui chơi dung dăng, dung dẻ, thì chị Chững phải nhốt cả 3 đứa con của mình lại ở trong nhà để ra ngoài vườn đóng gạch. Lắm khi nghe tiếng khóc của lũ trẻ khiến chị như đứt từng khúc ruột mà không thể bỏ dở công việc. Đến năm 1990, anh chị vay mượn mỗi nơi một ít làm được 4 gian nhà cấp bốn. Có nhà rồi nhưng nhiều khi gặp cơn giông bất ngờ làm tốc mái, chị một mình bắc thang leo lên đỉnh nóc lợp lại.

Trăm công nghìn việc dồn lên đôi vai gầy nhưng chị Chững luôn suy nghĩ: Trong hoàn cảnh nào cũng không làm điều gì ảnh hưởng tới tư tưởng của chồng. Năm 1976, bà cụ thân sinh anh Ngô Văn Học đang bó rạ ở ngoài đồng bất ngờ bị cật tre nhọn đâm thẳng vào mắt, nổ con ngươi, nhưng chị Chững không báo tin cho chồng đang đóng quân ở biên giới, vì theo chị, anh có biết cũng khó giải quyết được gì, lại càng thêm lo âu, suy nghĩ, ảnh hưởng tới công tác. Chị và anh em ở nhà đã chăm sóc bà cụ chu toàn.

Chị Chững đã dốc sức lo liệu cho cả đại gia đình như vậy đâu có phải dễ dàng? Có phải vì chị vốn sống trong một gia đình có nền nếp, là con gái đi lấy chồng phải biết trách nhiệm gánh vác cho gia đình nhà chồng? Hay có phải tính nết chị vốn cam chịu, nhẫn nại? Đoán được điều tôi muốn hỏi, anh Học bảo, ở làng quê anh mọi người sống bình đẳng, cách sống của người này ảnh hưởng tới người kia. Anh là con trưởng biết cầm cân nảy mực, đối xử với anh em công bằng, biết nhường nhịn các em, biết rộng mở tấm lòng với hàng xóm. Chồng sống như thế nào thì vợ cũng ảnh hưởng theo. Ra thế! Vợ anh lo bao nhiêu việc cho đại gia đình mà cứ như không vậy. Cuộc đời chị Chững đúng như các cụ nói từ ngàn xưa: "Thuyền theo lái, gái theo chồng", hết lòng lo cho gia đình nhà chồng.

Những ngày tháng đầu tiên nhà báo Ngô Văn Học về nghỉ hưu tại quê nhà (trước khi nghỉ hưu, anh là Tổng biên tập Báo Quân khu 1), tôi đoán anh sẽ tham gia làm "sếp" ở một tờ báo hay cơ quan hội nào đó của địa phương. Nhưng tôi đã nhầm. Anh chỉ gánh vác việc Trưởng cành họ Ngô ở thôn Quảng Hội là nơi chôn nhau cắt rốn của anh. Việc làm đầu tiên của ông Trưởng cành họ Ngô là vận động anh em trong họ xóa hẳn cái tệ nạn phong bì trong các đám giỗ. Sau đó, tại Đại hội Đảng bộ xã Quang Tiến lần thứ 19, nhiệm kỳ 2010-2015, với tư cách đại biểu chính thức của đại hội, anh đã châm "ngòi nổ" góp sức đấu tranh giải quyết dứt điểm vụ việc thanh niên tiêu cực trong xã nhà. Thế rồi "con tạo xoay vần", anh trở thành "nhà viết sử" ở quê, soạn thảo hương ước, viết kịch bản và đạo diễn chương trình tổ chức lễ hội làng Quảng Hội, tham gia sinh hoạt Câu lạc bộ Văn học-Nghệ thuật huyện nhà... Công việc đó của anh làm, tuy mất rất nhiều thời gian, công sức, nhưng Ngô Văn Học lúc nào cũng cảm thấy vui vẻ, phấn chấn. Niềm vui của anh càng được nhân lên, khi cuốn "Sử ký Quảng Hội" do anh biên soạn chính thức ra mắt được Đảng ủy xã Quang Tiến, huyện ủy Sóc Sơn đánh giá cao và thưởng cho tác giả 3 triệu đồng, nhưng anh Học đã dành toàn bộ số tiền đó để đóng góp cho dân làng tổ chức lễ hội. Một ngày sau đó, anh đã được dân làng Quảng Hội tín nhiệm chọn là người bổ nhát cuốc đầu tiên xây dựng ngôi chùa của làng đáp ứng nhu cầu tâm linh của các phật tử.

Bìa tập truyện ký Sao cuối làng của tác giả Ngô Văn Học.

Trong lúc chị Chững ra vườn bẻ ngô tặng khách, anh Ngô Văn Học đã mời chúng tôi vào thăm phòng làm việc của mấy bố con anh. Dưới chân giá sách là những bao thóc đã khô vỏ. Sát cửa sổ là máy vi tính, máy fax. Phía sau cửa sổ là ao bèo, là rặng vải, là cây bưởi trĩu quả.

Giờ đây, việc in thơ, in tiểu thuyết chẳng khó khăn lắm. Bởi vậy, được Đại tá, nhà báo Ngô Văn Học tặng cho tập truyện ký "Sao cuối làng", tôi cảm ơn anh nhưng chưa mừng vội, vì tôi muốn xem trước hết anh viết vì lý do gì? Tôi biết, trong cuộc sống hôm nay, đâu có thiếu những người muốn nổi danh mà in hết tập sách này đến tập sách kia trong khi nội dung nhạt nhẽo. Đâu có thiếu những người viết tụng ca nhân vật này, nhân vật kia vì do mang ơn người ta.

Tôi đi tìm câu trả lời cho mình và tôi đã dễ dàng tìm thấy. Đơn giản là, nhà báo cựu chiến binh Ngô Văn Học viết vì mến mộ, vì chia sẻ với những phận người bình thường, nhất là với những người đồng đội.

Hôm ấy, anh thương binh Lê Văn Bát (cùng quê với anh Học) đến nhà anh Học chơi. Anh Bát mất một cánh tay, lòa hai con mắt, đang phải chiến đấu với bệnh tật hằng ngày. Đến bữa ngồi vào mâm cơm, anh Bát không sao gắp thức ăn được. Vậy mà anh đã viết được 4 tập thơ. Anh Học thương. Vợ anh cũng khâm phục người bạn của chồng. Thế rồi người nọ thôi thúc người kia viết. Viết không chỉ để chia sẻ, còn để bày tỏ sự khâm phục ý chí, nghị lực của đồng đội.

Bao nhiêu bản thảo anh viết đại thể như chuyện về "thi sĩ thương binh" - Lê Văn Bát - mỗi ngày một dày thêm. Vợ anh hằng ngày thu xếp nhà cửa, nhìn thấy tập bản thảo ấy chưa được in báo hay in sách, cứ cảm tưởng như cánh đồng lúa đã chín rồi mà chưa gặt. Càng nghĩ, chị càng thương chồng thức đêm, thức hôm cày xới trên trang giấy. Nhưng có món gì bồi dưỡng đâu chứ! Đôi khi mới có cốc nước râu ngô, và mấy quả ổi ương ương. Lắm khi anh đang say sưa viết, cơn mưa bất ngờ ập tới, chị lại giục anh bỏ bút ra sân thu dọn thóc cùng chị. Có bận chị phải bẻ nanh cho đàn lợn sữa, anh cũng phải bỏ bút đấy, để giúp chị một tay. Thương chồng, hiểu chồng nên khi biết chồng muốn in tập truyện ký mà cứ băn khoăn vì chưa xoay ra tiền, chị liền tìm cách giúp. Sẵn có tiền bán con bê, và chờ đến kỳ bán hai lứa lợn được giá, chị đã dồn đủ tiền để chồng trang trải việc in ấn tập sách.

Gần 300 trang sách "Sao cuối làng" không có dòng nào nói về cuộc đời chị Chững. Nhưng sau khi đọc tập sách này, tôi cứ ngẫm nghĩ, những tình cảm của chị Chững dành cho gia đình, chồng con, cho đồng đội của chồng có gì đó đẹp như những tình cảm của các nhân vật trong "Sao cuối làng". Nói cách khác, chị là hình ảnh "Sao cuối làng" ở ngoài trang sách.

Lúc đầu, anh Học dự định in tập sách ở một nhà xuất bản khác, nhưng do người biên tập đã sửa chữa nhiều câu chữ "gò" vào khuôn mẫu khô cứng, khiến anh đành rút bản thảo về chuyển sang Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin.

Khi tập sách ra đời, nhiều anh em ở đơn vị cũ muốn chia sẻ, giúp đỡ anh Học lo "đầu ra". Nhưng anh cảm ơn rồi bảo, tôi không dám coi tập sách của tôi là món hàng, mà chỉ coi như trái cây từ vườn nhà mình tặng những người thân thiết, gần gũi. Cuối cùng, người nào nhận được tập sách anh Học tặng cũng có cảm tình riêng với anh. Một đứa cháu họ Ngô của anh vừa trầm trồ khen bìa sách đẹp vừa nhìn anh Học hóm hỉnh nói: Chào ông "Sao cuối làng" ạ. Ông cũng viết được sách à? Lâu nay, cháu chỉ nghĩ ông là bộ đội". Lại có cụ quê ở xã Đông Hợp, tỉnh Thái Bình (tên cụ là Lê Thanh Bình) biết anh có tập sách đã liên hệ để mua. Cảm kích trước sở thích của cụ, anh liền gửi sách tặng cụ qua đường bưu điện. Như thế, tôi cho rằng, anh Học in sách vì tình yêu với sách, với tấm lòng của mình chứ anh không in để "ấn". Nói cách khác, anh không có mục đích kiếm tiền từ tập sách ấy.

Chiều hôm ấy, lúc hai bác cháu tôi chia tay vợ chồng anh ra về, chị Chững cẩn thận buộc một túi ngô bắp, một nhánh cây hạ huyết áp vào sau xe tặng gia đình tôi. Lúc đó, trong lòng tôi cứ bùi ngùi thế nào! Bao nhiêu kỷ niệm với anh Học gần hai mươi năm về trước cùng anh đi công tác trên biên giới phía Bắc, bỗng nhiên ùa dậy quấn quýt với bao tình cảm hôm nay mà vợ chồng anh dành cho chúng tôi trên mảnh đất quê hương Thánh Gióng huyền thoại. Chỉ có điều, ngày ấy anh mới là một cán bộ chính trị yêu văn nghệ, một cây bút ham viết lách, còn hôm nay anh đã là một tác giả hẳn hoi, có riêng một tập sách để "trình làng".

Bài và ảnh: Lã Bá Tình