Một phần văn bản của cụ Phan Đình Phùng hiện trưng bày ở Bảo tàng Cách mạng Việt Nam. Ảnh tư liệu

Mới rồi tôi vào Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, thấy trưng bày hiện vật về cuộc khởi nghĩa Hương Sơn của cụ Phan Đình Phùng (1847-1895), bên cạnh khẩu súng trường “Khai phúc” còn có một văn bản chữ Hán viết trên giấy bản lồng trong kính, đã bạc màu thời gian. Khẩu súng trường, đó là thứ vũ khí tự tạo của nghĩa quân, còn bài thơ thì tuy do chính cụ viết, song chủ đề lại không liên quan đến cuộc khởi nghĩa. Tất nhiên, nếu khách tham quan muốn tìm hiểu sâu về bài thơ, những người có trách nhiệm của bảo tàng cũng có thể cho biết về nội dung, xuất xứ của nó, riêng với tôi thì bài thơ gợi về một kỷ niệm với người đầu tiên sở hữu hiện vật này.

Đó là một ngày đầu năm 1964 tại Hà Nội. Khi đó tôi còn trẻ măng, có một ông chú họ làm ở Viện Đông y (nay là Viện Y học cổ truyền Việt Nam, Bộ Y tế). Biết tôi thích tìm hiểu về văn học sử, chú tôi giới thiệu đến gặp cụ Phó Đức Thành từng có thời làm việc cho Viện, đã nghỉ hưu. Cụ Thành khi đó ngót tám mươi tuổi, song tráng kiện, minh mẫn, còn trong giới chuyên môn cụ nổi tiếng là bậc túc nho, y lý, y thuật đều tinh thông. Điều may mắn là, cụ chủ nhà ngay từ đầu đã tỏ ra chân tình cởi mở với một khách mới quen, lại “mù tịt” chữ Nho như tôi.

Cụ quê Đức Thọ, Hà Tĩnh, nhà ba đời làm nghề thuốc và cũng có nhiều người đỗ đạt khoa bảng, đặc biệt cụ tỏ ra rất trân trọng, tự hào với người đồng hương- chí sĩ yêu nước Phan Đình Phùng. Cụ Phan Đình Phùng sinh tại làng Đông Thái, tổng La Yên, nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ (Hà Tĩnh). Cụ Thành cho biết, hồi cụ bảy, tám tuổi theo cha đi làm thuốc, đã nghe danh như “sấm động bên tai” về nghĩa quân. Cụ Phan Đình Phùng tuổi vào hàng cha chú, lúc đó hưởng ứng chiếu Cần Vương đứng ra chiêu mộ hào kiệt các tỉnh Thanh-Nghệ-Tĩnh chống Pháp, trong gia tộc họ Phó Đức cũng có người theo nghĩa quân Hương Sơn. Cụ Phan tổ chức lực lượng nghĩa quân rất rành mạch, nghiêm minh, có 15 quân thứ với cùng một kiểu trang phục. Về trang bị, nhiều người có súng Khai phúc, ấy là do dưới trướng cụ có tướng Cao Thắng rành về công nghệ, lấy được khẩu súng trường Pháp kiểu năm 1874 đem về tháo ra từng bộ phận để nghiên cứu, đã chế thành công tổng cộng được gần 500 khẩu.

Ngoài nhà quân giới tài ba ấy, cụ còn có các tướng giỏi khác như: Nguyễn Thanh, Nguyễn Trạch, Phan Đình Cam, Cầm Bá Thước, Nguyễn Mục… Bởi thế suốt trong mười năm (1885-1895) nghĩa quân Phan Đình Phùng đã kiên cường chống lại quân Pháp, thắng nhiều trận, mà chiến thắng lừng lẫy nhất là trận Vụ Quang (tháng 10-1894). Địch nhiều lần mua chuộc, dụ dỗ, dùng cả thủ đoạn lấy những bạn đồng môn khi xưa của cụ sau cam tâm làm tay sai cho giặc như: Phan Trọng Mưu, Hoàng Cao Khải, Võ Khoa viết thư dụ hàng, nhưng đều bị cụ cự tuyệt thẳng thừng. Tiếc thay, giữa lúc cuộc kháng chiến đang tiếp diễn thì ngày 28-12-1895 cụ mắc bệnh kiết lỵ nặng và qua đời tại đại bản doanh núi Quạt ở tuổi 49. Cuộc khởi nghĩa mất chủ tướng nên tan rã.

Giữa chừng câu chuyện với tôi, cụ Phó Đức Thành mang cho xem một cuộn giấy bản được gói ghém cẩn thận, mở ra dài chừng nửa mét, cao chừng một gang tay (bản nay đặt tại Viện Bảo tàng cách mạng), bảo đây là của quý tiền nhân để lại, có bút tích của cụ Phan Đình Phùng. Sau đó tôi được cụ chủ nhà chỉ dẫn sơ sơ về nội dung văn kiện bằng chữ Hán đó, cuối bài là hàng chữ: “Hàm Nghi tam niên, nhị nguyệt sơ thập nhật. La Yên tam giáp tiến sĩ Phan thị thư”. Cụ giải thích: Bài viết không ghi tên riêng của cụ Phan, mà chỉ ghi La Yên tam giáp tiến sĩ Phan thị thư, nghĩa là do ông tam giáp tiến sĩ người xã Yên Đồng, tổng La Yên là họ Phan. Với dòng ấy cùng dấu ấn son đỏ đóng sau chữ “thư” cũng đủ chứng minh rằng văn kiện đó là của cụ Phan Đình Phùng.

Về sau tôi được biết, cụ Phó Đức Thành đã hiến hiện vật quý báu đó của gia đình cho Nhà nước và tôi còn may mắn được đọc một bài báo đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử của Viện Sử học, có bản dịch hoàn chỉnh toàn bài của học giả Lê Thước (1891-1976). Theo nhận định của học giả Lê Thước thì văn bản trên đề ngày 10-2 năm Hàm Nghi thứ ba, tức dương lịch ngày 4-3-1887. Hồi đó vua Hàm Nghi đang ẩn náu ở vùng núi hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh. Cụ Phan Đình Phùng đến yết kiến vua và được Hàm Nghi giao chức đổng biện các đạo nghĩa quân Nghệ-Tĩnh. Sau vài ba trận giao chiến với Pháp gặp thiệt hại, cụ phải rút quân về lập căn cứ tại nơi núi rừng trùng điệp Hương Sơn-Hương Khê.

Năm 1887, tức là khi khởi nghĩa nổ ra được 2 năm, cụ tạm giao việc quân cho tướng dưới quyền rồi ra Bắc để liên lạc với các lãnh tụ Cần Vương tại Thanh Hóa và các tỉnh Bắc kỳ. Chính trên đường của chuyến đi đó, cụ đã vào một gia đình ở Diễn Chu (Diễn Châu), Nghệ An và để lại văn bản kể trên. Cụ trọ tại nhà ông Tô Bá Ngọc ở làng Đông Yên, tổng Vân Tụ. Đây là một gia đình gia giáo nền nếp. Chủ nhà mồ côi khi còn trẻ, ở với ông chú, đến khi chú mất, bà thím góa bụa được ông phụng dưỡng chu đáo. Trong làng, ai nghèo túng không đủ ăn ông giúp tiền, lúa, có người nghèo đói đến nhờ cậy ông đều xuất lúa giúp họ theo giá hạ, hoặc cho không, nhờ vậy gặp năm đói kém cứu được nhiều nhà khỏi chết đói. Ngược với tính cách nhân hậu của ông Bá Ngọc, bên hàng xóm còn có ông nhà giàu nhưng keo bẩn, cho vay nặng lãi. Đến khi hắn mất, hai đứa con tranh giành nhau của cải, cơ nghiệp chẳng mấy chốc bị thất tán. Vậy nên trong phần cuối bài cụ Phan viết: “Than ôi! Cùng một giang sơn, cùng một phong thổ, cùng một làng xóm, nhà ở kề cạnh nhau, mà vì sao một bên thì hậu, một bên thì bạc, không giống nhau! Đó chính là do phép nhà xui nên vậy”. Trong mấy ngày lưu lại, chủ khách đàm đạo, xướng họa rất tâm đắc, trước khi từ biệt, chủ xin khách cho một bài thơ. Cụ Phan đã lấy ý về cách xử sự nhân nghĩa của chủ nhà mà có bài thơ tặng (bản dịch nghĩa của Lê Thước):

Tháng hai năm Đinh Hợi

Nhân qua làng Đông Yên

Nghe nói họ Tô nọ

Trung hậu đời đời truyền

Vào nhà mới được biết

Nói năng sao ôn tồn

Trong nhà trọng hiếu đễ

Anh em bày thiên luân

Chủ nhân lòng mến khách

Bạn bầu vui yến tiệc

Cùng bàn chuyện cổ kim

Xướng họa đề đầy vách

Bá Ngọc gắng nữa lên

Ấy ơn dầy đời trước

Gắng thêm lại gắng thêm

Làm lành được hưởng phước.

Văn chương từ trước có tiền duyên

Mới cũ bàn gì chỗ lạ quen

Khoa giáp non Tùng ta ấy chủ

Thư thi núi Lạp bạn là tiên

Vì sao mắt trắng thành bầu bạn

Dễ khiến trời xa hóa láng giềng

Gặp gỡ phen này nhiều thú lạ

Ghi mùa xuân đẹp mảnh hoa tiên.

Ngoài thơ, cụ Phan còn có bài “Đề nhà thờ họ Tô”:

Ngôi nhà rực rỡ thờ gia tiên

Lòng khách vào đây vui vẻ thêm

Hỏi núi sông đây gì đẹp nhất?

Họ Tô thi lễ thế gia truyền.

Bối cảnh ra đời văn kiện trên vào giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa, đang lúc nước sôi lửa bỏng, có trăm nghìn công việc để lo nghĩ, mà vị chủ tướng nghĩa quân vẫn rất quan tâm đến các mối quan hệ đời thường, cổ súy cho việc thực thi đạo đức nhân nghĩa trong xã hội. Và dẫu là nhà chỉ huy quân sự, cụ Phan trong hoàn cảnh đó vẫn bộc lộ phong cách của một nhà khoa bảng-thi nhân. Giờ đây, bên cạnh một số tác phẩm khác lưu được của cụ như: Điếu Lê Ninh; Khóc Cao Thắng; Đáp hữu nhận ký thi; Thắng trận hậu cảm tác… còn có thêm bài thơ nữa đậm chất nhân tình thế thái theo đạo thánh hiền này.

PHẠM QUANG ĐẨU