QĐND - Ông Trần Kiên từng là một trong những chỉ huy của Đội du kích Ba Tơ. Trong kháng chiến chống Mỹ, ông là Bí thư tỉnh ủy Quảng Ngãi, rồi Thường vụ Khu ủy Khu V. Sau khi nước nhà thống nhất (năm 1975), ông lại làm Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Nghĩa Bình (Quảng Ngãi-Bình Định), Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Gia Lai-Kon Tum, rồi Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương.
Có thể nói, Trần Kiên là con người của giai thoại. Thời kháng chiến chống Mỹ, ở khắp chiến trường Trung Trung Bộ, không ai là không thuộc câu: "Muốn ăn thì theo ông Ngọc, muốn học thì theo ông Kiên"; trong thời bình lại có câu: "Nằm ngửa thấy cụ Kiên, nằm nghiêng thì thấy rẫy mì". Cùng với những câu gần như đã trở thành "ngạn ngữ địa phương" ấy là hàng loạt những giai thoại, truyền thuyết về con người mạnh mẽ và đầy bản lĩnh này.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cán bộ và chiến sĩ Khu V ai cũng biết cây "môn thục" bởi nó đã trở thành loại "thức ăn chiến lược" trong những thời điểm khó khăn nhất. Môn thục là thứ cây hoang dại mọc bạt ngàn ở các sườn núi, dọc các suối, khe. Ấy vậy mà có lần đi đường, cần vụ nhổ môn thục nấu canh, ông Kiên tỏ vẻ không hài lòng và nhắc khéo: “Lần sau mà các cậu nhổ cả gốc thế này là mình không ăn đâu nhé!". Khi cậu cần vụ tỏ vẻ ngơ ngác thì ông giải thích: “Chỉ nên cắt phần thân lá thôi, để gốc lại cho nó lên lứa khác, người sau còn có cái mà ăn nữa chứ!”.
 |
Ông Trần Kiên (bên trái) trong một lần kiểm tra tình hình trồng rừng tại Lâm Đồng năm 1992 và chụp ảnh lưu niệm cùng cố vấn Phạm Văn Đồng.
|
Có lần, ông được cử thay mặt Khu ủy Khu V ra Hà Nội họp Trung ương. Ban tổ chức đã bố trí cho ông vào ở một phòng theo tiêu chuẩn của cán bộ cao cấp. Ông xin được đổi sang một phòng nhỏ hơn hoặc ở chung với người khác nhưng Ban tổ chức Hội nghị không đồng ý. Sau một hồi ngắm nghía, ông quyết định dọn gọn bàn ghế sang một bên và nhờ người phục vụ phòng khiêng giường ra hành lang rồi ông tự tay quét lau sạch sàn nhà để... nằm. Ban tổ chức cứ lo có chỗ nào phục vụ không chu đáo làm ông phật lòng chăng? Khi hỏi, ông Kiên giải thích:
- Ở miền Nam, mỗi người chỉ có một cái võng là đủ nằm rồi. Ra đây nhà cửa rộng quá, chỉ có "lăn" mới hết chứ "nằm" thì phí quá!
Hiểu ý ông, Ban chỉ đạo hội nghị đã "ý tứ" tổ chức cuộc họp gọn nhẹ và tiết kiệm hơn để dành tiền bạc và thời gian phục vụ cho chiến trường đang hết sức gian khổ và khẩn trương.
Năm 1966, tôi gặp ông ở chiến trường Quảng Nam-Đà Nẵng khi quân Mỹ đã đổ vào để thực hiện chiến lược "Chiến tranh cục bộ". Chúng đánh phá và càn quét hết sức ác liệt để thiết lập "vành đai trắng" quanh căn cứ không quân Đà Nẵng. Rời cơ quan Đặc khu ủy Đà Nẵng, theo yêu cầu của ông, đoàn chúng tôi phải đi "xuyên sơn" (tức là không theo các lối mòn đã có sẵn) xuống chiến trường Quảng Đà. Khi xuống đến chợ Hà Nha (một chợ thuộc huyện Đại Lộc, nằm dọc sông Vu Gia), chúng tôi gặp nhiều tốp đồng bào, lưng cõng con nhỏ, vai gồng gánh, tay dắt trâu bò chạy về hướng núi. Khi hỏi mấy phụ nữ thì được biết, làng của họ đang bị ném bom dữ dội và trực thăng Mỹ đang đổ quân càn quét. Ông Kiên phán: "Sao các người không bám trụ lại, thực hiện "hai chân ba mũi" đánh địch mà bỏ chạy?". Một phụ nữ trả lời vẻ gay gắt: "Ông có giỏi xuống đó mà trụ bám! "Hai chân ba mũi" đâu không thấy, chỉ thấy chúng đánh vào dân. Dân chịu không nổi thì chạy thôi".
 |
Ông Trần Kiên (bên phải) và bữa cơm giữa rừng với cán bộ địa phương. Ảnh do nhân vật cung cấp. |
Ông Kiên bật cười, quay lại nói với chúng tôi: "Đúng là một người nói ngang, ba làng nói không lại. Nhưng chắc là lực lượng vũ trang và công tác binh địch vận ở đó có vấn đề".
Thế đấy! Đã không ít lần, chính tính bộc trực đã khiến ông phải lúng túng trước những tình huống cụ thể. Ví như có lần, ông đã nhờ xe của một ban nọ đi thăm lại các vùng căn cứ kháng chiến và khảo sát các dự án trồng rừng ở Tây Quảng Ngãi. Khi lên xe, ông mang theo cơm nắm và bình toong nước mà cụ bà đã chuẩn bị sẵn. Hồi ấy, hầu hết đường lên miền núi vẫn còn rất xấu. Chiếc xe U-oát miệt mài vất vả leo qua từng con dốc, từng ngọn đèo. Đến quá trưa, dẫu cậu lái xe đã mệt nhoài và dù đã qua nhiều quán "đặc sản rừng" ven đường, ông Kiên vẫn tỉnh bơ không nói gì đến chuyện ăn uống. Đường xấu cộng với sự đói, mệt của người lái khiến chiếc xe cứ nhảy chồm chồm làm ông ngồi ở ghế sau cứ bị nhồi như quả bóng. Ông bực mình, đập khẽ vào vai lái xe:
- Này! Cậu biết cậu đang chở ai đây không mà cho xe chạy ẩu vậy?
Cậu lái xe quay lại, lễ phép:
- Dạ, biết chứ ạ!
- Thế cậu đang chở ai nào?
- Dạ, cháu đang chở cả một kho tàng lịch sử của Quảng Ngãi đấy ạ!
Ông Kiên bật cười nghiêng ngả:
- Cậu này "lém" thật!
Sau khi nghỉ hưu, rời Hà Nội, ông về sống trong một căn nhà cấp 4 ở một nơi "lỡ chợ lỡ quê" thuộc một xã ngoại vi thị xã Quảng Ngãi. Nhiều người bảo, Trung ương cấp nhà cho ông ở Hà Nội, ông từ chối. Khi về quê, lãnh đạo Quảng Ngãi cũng định cấp "nhà lớn" ở đường phố chính cho ông nhưng ông thoái thác: "Mình già rồi, không thích ở chỗ ồn ào. Vả lại chỉ có hai vợ chồng già, ở chi nhà lớn?". Là một trong những người được gần gũi ông trong chiến tranh, cũng như nhiều anh em khác, lúc rảnh rỗi, chúng tôi thường lên thăm chơi nhà ông. Ngoài những cương vị Bí thư tỉnh ủy, Thường vụ Khu ủy, Bí thư Trung ương Đảng..., trong tiềm thức chúng tôi, về mặt quân sự, ít nhất ông cũng được phong hàm "Tướng", bởi lẽ ông làm chỉ huy từ thời du kích Ba Tơ. Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia chỉ huy nhiều chiến dịch ở Quảng Ngãi và Bắc Tây Nguyên. Trong kháng chiến chống Mỹ, ông từng là Chỉ huy trưởng trong trận đánh Ba Gia (1965) nổi tiếng, sau là các chiến dịch ở Tây Nguyên, Quảng Nam-Đà Nẵng, Bắc Bình Định... và thuộc loại chỉ huy "hét ra lửa". Trong một lần gặp thăm vui vẻ, tôi bèn "bạo mồm" hỏi về việc ấy. Ông bảo:
- Đúng là như vậy, nhưng chưa bao giờ ta được phong bất cứ một cấp hàm nào của quân đội. Thôi! Nếu tín nhiệm, các cậu hãy gọi ta là "Tướng không sao" vậy. Và ông cười một tràng dài.
Còn nhớ, một buổi sáng năm 1999, khi tôi còn đang làm ở Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Quảng Ngãi, vừa đọc xong mấy công văn buổi sáng thì thấy ông Kiên xuất hiện trước cửa phòng. Tôi đon đả mời ông vào bàn uống nước và hỏi ông:
- Bác xuống tỉnh ủy định tìm ai?
- Ta tìm mi chứ còn tìm ai nữa?
- Dạ, cháu chỉ là "lính láp", làm gì tham gia được những chuyện "đại sự" của bác. Nhưng bác nói thật đấy chứ? Tìm cháu có chuyện gì?
- Ta biết mi là thằng có học, ta muốn tìm hỏi mi chuyện này...
- Dạ, học thì học chứ đâu phải "có học" chuyện gì cũng biết. Nhưng bác cứ nói, nếu biết thì cháu trả lời.
- Ta hỏi mi tại sao thời nhà Nguyễn thành Gia Định cuối cùng phải thất thủ trước sự tấn công của quân Pháp, mặc dù trước đó chúng đã tấn công nhiều lần mà không lấy được.
- Dạ, tưởng gì chứ chuyện ấy thì sách vở nói cả rồi. Thành Gia Định cũng như thành Hà Nội bị Pháp tấn công, địch quá mạnh, ta chỉ có vũ khí thô sơ chưa tổ chức phối hợp được với các chiến trường nên đành thất thủ...
- Hóa ra, lớp trí thức các cậu cũng chỉ là những con mọt sách, chỉ biết sách mà không biết đời. Giữa sách và đời có khoảng cách đấy.
- Vậy theo bác, vì sao Gia Định thất thủ?
- Các cụ ngày xưa kể rằng: Gia Định vốn là một thành rất kiên cố. Ngoài các lớp đồn phòng thủ còn có cả mấy lớp hào sâu và lũy tre dày đến hàng chục thước bao quanh. Ta bên trong thấy địch mà địch không thấy ta. Pháp tấn công vào Gia Định rất nhiều lần nhưng đều bị quân ta đánh bật ra. Cuối cùng, chúng nghĩ ra cách: Bỏ tiền, vàng bạc vào nòng đại bác bắn vào thành; khi đạn nổ, những thứ ấy tung ra và quan quân ta thấy vậy vứt súng, tranh nhau nhặt vàng bạc bỏ túi. Tiền, vàng rơi trong bụi, mọi người lại thi nhau chặt tre để lấy cho bằng được. Chẳng mấy chốc, lũy tre bảo vệ thành bị phá tan hoang. Toàn bộ lực lượng của ta bên trong không còn chỗ ẩn nấp và thế là thành Gia Định bị mất.
Thú thật, đây là lần đầu tiên tôi được nghe một kiến giải rất mới lạ về nguyên nhân thất thủ của thành Gia Định mà có lẽ chưa có sách vở nào ghi lại. Đang mải thích thú về điều ấy thì ông Kiên lại tiếp:
- Mi có biết không? Bây giờ, nhiều kẻ xấu vẫn đang bắn chúng ta bằng những phát đạn mang vàng và đô-la đấy!
Tôi hiểu ẩn ý trong câu nói ấy của ông. Quả là những lần gặp ông, một vị "Tướng không sao" một người tự nhận mình chỉ mới có bằng "tiểu học" ấy đã đem lại cho tôi nhiều điều thú vị. Tôi càng thấy thấm thía hơn câu ngạn ngữ: "Muốn học thì theo ông Kiên".
TRẦN HOÀI HÀ