Ông bà Hà Văn Lâu.

Niềm vui của anh chị là được thấy lại dòng sông, gốc đa, giếng nước và được đứng trước căn phòng cưới của mình 53 năm trước, rồi dẫn nhau ra gốc cây cừa có thân bổ dài ra trên mặt nước sông Hương. Giọng Huế của chị vẫn trong trẻo ngọt ngào như xưa khi nói với anh: “Ngày xưa anh hay ngồi câu cá trên gốc cây này. Còn em thì bưng chén bát ra bờ sông rửa. Cứ rửa hoài rửa mãi mà không xong, bị má la hoài, bởi vì lúc đó em bận ngắm anh!”...

Dòng sông Hương bắt nguồn từ trên dãy núi xa mờ, phía mặt trời lặn. Khi ông giáo Hà Văn Phu (người ta thường gọi là thầy Cửu Phu) mới ra đời đã thấy núi nằm ngang một dãy trên kia, cái nhô cao nhất là đỉnh Tam Thai. Nơi dòng sông Bồ chảy xuôi về Cửa Thuận gặp sông Hương, chỗ hai dòng sông gặp nhau ấy là ngã ba Sình. Tối tối, thầy Phu thường xuống bến sông ngồi tựa gốc cừa mà lắng nghe tiếng hò man mác: Chiều chiều trước bến Văn Lâu. Ai ngồi, ai câu. Ai sầu, ai thảm, ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non… Vợ thầy Phu sắp đến ngày sinh nở. Thầy Phu bảo vợ: “Trai gái chi cũng đặt tên Lâu… Hà Văn Lâu”. Đúng giờ Ngọ ngày 9-12-1918, cô Nga trở dạ sinh một bé trai khôi ngô, tuấn tú. Thầy Phu reo lên mừng rỡ: “Thằng Sáu Lâu của cha!”.

Người con trai của thầy Cửu Phu sau trở thành Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hà Văn Lâu, người có cuộc đời hoạt động cách mạng vô cùng phong phú, từ chiến trường đến bàn đàm phán, từ Hội nghị Giơ-ne-vơ đến Pa-ri…

Cậu bé Hà Văn Lâu lên 7 tuổi thì cha qua đời. Mẹ tần tảo buôn gánh bán bưng nuôi anh em ăn học. Nhà nghèo, Sáu Lâu luôn cố gắng học nhưng đến tú tài phần một thì không có điều kiện học tiếp, phải đi làm một chân công chức cho Pháp để kiếm sống, giúp mẹ nuôi em.

Năm 1944, Sáu Lâu vào làm việc ở Ninh Hòa, thuộc tỉnh Khánh Hòa và bắt đầu tham gia hoạt động Việt Minh. Sau Cách mạng Tháng Tám, Sáu Lâu vào chiến đấu ở mặt trận Nha Trang hơn 6 tháng thì ra vùng tự do Tuy Hòa, Phú Yên làm Đại đoàn phó Đại đoàn 27. Trước ngày Toàn quốc kháng chiến, theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Chí Thanh, lúc đó là Bí thư Xứ ủy Trung kỳ kiêm Chủ tịch Việt Minh Trung Bộ, Sáu Lâu ra Huế nhận nhiệm vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn Trần Cao Vân, sau đó thì kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính Thừa Thiên - Huế, chiến đấu ngay trên quê hương.

Bên bàn thờ mẹ, cạnh phòng cưới năm xưa.

Năm 1950, đang làm Chỉ huy trưởng Mặt trận Bình-Trị-Thiên, Sáu Lâu được Bộ Tổng tư lệnh triệu tập ra Việt Bắc báo cáo và dự lễ mừng sinh nhật lần thứ 60 của Bác Hồ. Trong bữa cơm thân mật do các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước tổ chức mừng sinh nhật Bác, anh được vinh dự ngồi bên Bác. Suốt buổi tối, Sáu Lâu cố nén xúc động để trả lời những câu hỏi của Bác về cuộc chiến đấu của quân và dân Bình-Trị-Thiên mà không màng ăn uống, Bác gắp thức ăn đầy bát anh và luôn nhắc ăn đi. Cuối bữa cơm, Sáu Lâu đưa tấm ảnh Bác mà anh đã chuẩn bị trước để xin chữ ký của Bác làm kỷ niệm. Bác cầm bức ảnh, ghi một dòng: “Kháng chiến nhất định thắng lợi” rồi ký tên “Hồ Chí Minh”. Đối với Sáu Lâu, đó là kỷ niệm quý giá nhất trong cả cuộc đời.

Sau này, do yêu cầu nhiệm vụ, Hà Văn Lâu chuyển sang làm công tác ngoại giao. Đầu tiên anh làm Trưởng phái đoàn liên lạc của Bộ Tổng tư lệnh bên cạnh Ủy ban Quốc tế giám sát việc thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, sau đó làm Đại sứ Việt Nam tại Liên hợp quốc và ở nhiều nước trên thế giới, rồi làm Thứ trưởng Bộ Ngoại giao… Có thể nói cuộc đời Hà Văn Lâu-người con trai của làng Sình ở Huế gắn liền với lịch sử hai cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc vĩ đại ở thế kỷ XX. Dù trên chiến trường hay bàn đàm phán, anh đều hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình. Nhưng suốt chặng đường Hà Văn Lâu đi qua, luôn có sự gắn bó, dõi theo của người vợ yêu rất mực chung thuỷ của anh...

Vợ anh là chị Nguyễn Tăng Diệu Hương, con nhà dòng dõi quý tộc trong triều đình Huế, nhưng lại có lối sống chân thật, giản dị, chẳng màng son phấn, lại hoạt bát, quán xuyến việc nhà. Anh chị cưới nhau được vài năm thì Cách mạng Tháng Tám bùng nổ. Liền sau đó giặc Pháp trở lại xâm lược nước ta. Anh đưa chị về làng Sình ở với mẹ, rồi vào chiến đấu bảo vệ thành phố Nha Trang. Năm năm lấy chồng nhưng chẳng được sống gần chồng. Sáu Lâu nghĩ mà thương vợ, giá có con sớm chắc chị được an ủi nhiều.

Vỡ mặt trận Khánh Hòa – Nha Trang, Trung ương điều anh ra Huế làm Trung đoàn trưởng đầu tiên của Trung đoàn Trần Cao Vân. Lúc này anh vào tuổi hai mươi bảy, chị thì hăm bốn. Thấy để hai vợ chồng trẻ phải sống xa nhau cũng tội, năm 1947 tổ chức đã cho bộ đội vào vùng địch đón chị lên chiến khu Hòa Mỹ sống với anh. Cô nữ sinh thành Huế chân yếu tay mềm dòng dõi quý tộc nay mới được nếm trải những cơn đói muối, thiếu gạo và những trận sốt rét rừng. Nhưng vì yêu chồng, cô chịu đựng hết. Chồng bận chỉ huy, chiến đấu, vợ ở nhà đi kiếm mớ rau, con cá nuôi chồng và tập đánh máy chữ để làm thư ký cho Trung đoàn, rồi cùng đồng đội đi cuốc đất trồng rau, trồng khoai chống đói. Công việc của anh càng nhiều và nặng nề, rất ít có dịp chăm sóc chị, nhưng chị vẫn vui vẻ chịu đựng bom đạn, gian khổ, cố gắng giúp đỡ chồng. Ở chiến khu vô cùng gian khổ, gay go lại phải chăm con nhỏ. Cháu Minh là con nuôi của anh chị nhưng ai cũng tưởng là con đẻ. Bố mẹ Minh tham gia du kích và bị giặc Pháp giết hại chỉ còn lại hai chị em. Chị gái Minh đi lấy chồng, Diệu Hương bàn với Sáu Lâu xin nhận Minh về nuôi. Minh vừa gầy lại hay sổ mũi, viêm họng, sưng phổi hoài. Diệu Hương có mang con đầu lòng, đói, lại sốt rét, gầy, má hóp, da xanh nhưng có được hộp bánh, lon sữa chiến lợi phẩm đơn vị gửi lên biếu anh chị lại nhường cho bé Minh hoặc đem cho thương binh nặng ở bệnh viện. Năm 1951, Diệu Hương sinh con trai đầu lòng. Anh chị đặt tên con là Hà Tăng Lâm để kỷ niệm mối tình đằm thắm của họ ở rừng chiến khu. Năm

Ông bà Hà Văn Lâu cùng gia đình về thăm bến làng Sình, nơi 65 năm trước họ gặp gỡ và yêu nhau.

1954, anh được phong hàm đại tá để đi dự hội nghị ở Giơ-ne-vơ rồi sau đó chuyển qua làm ngoại giao, chị ở nhà vừa nuôi con vừa học. Tốt nghiệp dược sĩ, chị phục vụ trong bệnh viện Việt-Đức. Năm 1956, chị sinh Hà Thị Diệu Hồng, rồi năm 1959 sinh Hà Thị Ngọc Hà.

Năm 1974, anh được cử đi làm đại sứ ở Cu-ba thì chị cũng theo anh. Tính chị rụt rè, thường không muốn tham dự các cuộc tiếp tân, nhưng công việc coi kho, văn thư, đánh máy, nấu ăn thì chị làm quần quật suốt ngày. Anh chị em trong sứ quán rất thương mến chị Diệu Hương và vô cùng cảm phục khi thấy đại sứ phu nhân chẳng nề hà những việc nặng nhọc.

Năm 1977, anh chị vừa về nước được ít lâu thì đứa cháu nội đầu tiên: Hà Kiều Anh (sau này là Hoa hậu Việt Nam năm 1992) ra đời. Hai bà cháu quấn quýt nhau. Bà rất yêu cháu nhưng ông nội phải đi làm ngoại giao ở Mỹ, bà đành rời cháu theo giúp đỡ ông. Bốn năm sau, từ Mỹ, anh về nhận chức Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, chị mừng tưởng rằng sẽ được ở mãi bên con, cháu nhưng 5 năm sau đó, anh lại đi làm đại sứ ở Pháp, chị lại khăn gói lên đường chăm sóc anh. Ở Pháp được vài năm, chị đau nặng, phải về nước chữa bệnh. Trong lúc đau yếu, chị chẳng quan tâm gì đến mình mà chỉ lo không biết ở bên đó ai sẽ lo cái ăn, cái mặc cho anh. Bởi vì hơn ai hết, chị biết rõ anh làm việc rất giỏi, nhưng lại vụng về trong sinh hoạt đời thường. Nhưng rồi căn bệnh của chị ngày một nặng, hầu như không thể qua khỏi. Về nước, anh xin nghỉ hưu để chăm vợ. May sao anh chị đã gặp được Giáo sư - bác sĩ quân y, Đại tá Nguyễn Địch – một người đồng hương và là thầy thuốc tài giỏi đã cứu chị qua cơn hiểm nghèo.

Kể từ lúc này, khi cả anh và chị đều đã quá tuổi 70, họ mới không rời nhau nữa. Hễ anh ngồi vào bàn làm việc là chị bắc ghế ngồi đan, thêu bên cạnh và chờ xem có việc gì anh “sai bảo” để giúp. Tuy tuổi đã cao nhưng anh vẫn hăng hái tham gia hoạt động Hội Cựu chiến binh, rồi cũng phải đi đây, đi đó luôn. Chị lại theo anh, giúp đỡ anh làm việc. Lúc nghỉ ngơi rảnh rỗi dăm bảy ngày, anh chị lại đưa nhau ra Huế, tìm lên chiến khu Hòa Mỹ thăm nơi an nghỉ của đồng đội. Đến chiến khu Hòa Mỹ, anh đưa chị ra bến sông Ô Lâu. Nơi đây, thời chống Pháp, họ đã được sống bên nhau mấy năm liền đầy kỷ niệm. Anh đứng trầm ngâm nhìn dòng sông và những bông hoa dại tím ven bờ. Chị bỗng hỏi: “Anh nhớ không? Chỗ này em xuống rửa mặt, đánh rơi chiếc đồng hồ, làm khổ anh phải lặn hụp tìm hoài không thấy”. Anh cười dịu dàng: “Mình nhớ dai thiệt!”. Rồi anh chị lại đưa nhau về làng Sình quê anh và Phù Lễ quê chị – đều ở bên bờ sông Hương. Họ vui sướng khi gặp lại bà con thân thuộc, được viếng mộ tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Niềm vui của anh chị là được thấy lại dòng sông, gốc đa, giếng nước và được đứng trước căn phòng cưới của mình 53 năm trước, rồi dẫn nhau ra gốc cây cừa có thân bổ dài ra trên mặt nước sông Hương. Giọng Huế của chị vẫn trong trẻo ngọt ngào như xưa khi nói với anh: “Ngày xưa anh hay ngồi câu cá trên gốc cây này. Còn em thì bưng chén bát ra bờ sông rửa. Cứ rửa hoài rửa mãi mà không xong, bị má la hoài, bởi vì lúc đó em bận ngắm anh!”…

Hiện anh chị đã ngoài tuổi 80 và đang sống hạnh phúc bên nhau trong một mái ấm ở số 38 Đỗ Công Tường, phường Tân Quý, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.

TRẦN CÔNG TẤN