Bà Ma-lích Bu-chi vừa bước qua tuổi 60, mái tóc bạc trắng với khuôn mặt phúc hậu. Chúng tôi được gặp bà tại căn hộ 3 tầng nằm sâu trong khu tập thể trường PTTH Hà Nội-Am-xtéc-đam. Chúng tôi vẫn quen gọi bà theo cái tên Việt Nam là Mai Linh, vì cách phát âm na ná như tên của bà: Ma-lích. Bà Ma-lích gốc Thụy Sĩ, sống ở vùng dân cư nói tiếng Đức. Bà bắt đầu sang Việt Nam thường xuyên từ năm 1997. Trước khi sang đây, bà đã từng dạy tiếng Anh và Hy Lạp cho sinh viên tại quốc đảo In-đô-nê-xi-a trong vòng 15 năm. Cùng thời gian đó, một người bạn sống lâu năm tại Việt Nam đã mời bà sang thăm và chuyến đi ngắn ngủi chỉ trong vòng 8 ngày ấy càng củng cố thêm quyết định của bà sau này. Trên thực tế, lần đầu tiên biết đến đất nước Việt Nam và cũng là lần đầu tiên bà tới châu Á là vào năm 1973. Kể từ đó, đất nước Việt Nam xinh đẹp đi lên từ chiến tranh và đói nghèo đã để lại ấn tượng mạnh trong lòng người phụ nữ ngoại quốc lúc đó mới hơn 30 tuổi. Thời gian sau này, bà đã lưu lại Đà Nẵng và một lần nữa, bà lại làm một người tình nguyện không biết mệt mỏi cùng với những người bị bệnh phong đấu tranh chống lại bệnh tật, song song với việc học tiếng Việt. Bà kể lại rằng, hồi ấy nhìn chung dân cư trong vùng rất sợ người hủi và tránh họ như tránh địch. Bà và một người bạn nữa đã đưa thuốc từ Thụy Sĩ sang để cứu chữa cho những người bệnh này. Hai người ngoài việc trợ giúp về mặt thuốc men còn giúp đỡ vô số những việc khác mà nhiều người Việt Nam khỏe mạnh không dám làm như tận tâm chăm sóc, dìu họ lên xe để đưa tới bệnh viện...

Thời gian đầu sống tại thủ đô Hà Nội, bà Ma-lích đã chính thức theo học khóa tiếng Việt kéo dài 2 năm tại trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội. Bên cạnh việc đến trường, bà vẫn đều đặn học tiếng Việt tại nhà và cho rằng việc học lúc này rất vui vì cả thầy trò cùng hỗ trợ nhau về mặt ngôn ngữ, người thì cải thiện ngôn ngữ tiếng Việt, người thì nâng cao khả năng nắm bắt tiếng Anh.

Ngoài lớp học tình thương dành cho trẻ em mồ côi, bà còn phụ trách một số lớp do UNESCO đứng ra tổ chức và một số lớp luyện nói cho những người Việt Nam quen biết chuẩn bị đi công tác nước ngoài. Điều đặc biệt là tất cả các lớp học trên, bà đều không nhận bất cứ một chi phí nào của Chính phủ Việt Nam và các tổ chức ở Thụy Sĩ. Bà giải thích rằng, có một số người bạn Thụy Sĩ ủng hộ và giúp đỡ bà mọi phí tổn đủ chi dùng cho cuộc sống tại Việt Nam. Bà là người tình nguyện đi làm công tác từ thiện nên không muốn học trò của mình cũng như người khác đả động tới vấn đề tế nhị đó
Bây giờ bà có thể sử dụng thành thạo cả 5 thứ tiếng: ngoài tiếng mẹ đẻ là tiếng Đức, ngôn ngữ thứ 2 của quốc gia Thụy Sĩ là tiếng Pháp, bà còn nói được tiếng Anh, tiếng In-đô-nê-xi-a và cuối cùng, đương nhiên là tiếng Việt. Ngoài ra, việc nghiên cứu ngôn ngữ Hy Lạp cũng là một niềm say mê của bà. Hiện nay cô giáo Ma-lích vẫn đều đặn mỗi thứ 7 hàng tuần tới xã Lập Thạch (Vĩnh Phúc) để dạy tiếng Anh cho trẻ em mồ côi. Tổng số trẻ là 32 em được chia làm 2 lớp. Các em đều chưa biết tiếng Anh nhưng sau một thời gian học tập, dưới sự dìu dắt của cô giáo Ma-lích đã rất tiến bộ và hứng thú với bộ môn mới mẻ này. Cứ mỗi buổi học và đặc biệt là khi có khách nước ngoài tới thăm, những cô cậu học trò nhỏ lại đặt ra những câu hỏi đơn giản và ngộ nghĩnh mà chúng đều biết câu trả lời rồi như "What's your name?" (Bà tên là gì?), "Where are you from?" (Bà là người nước nào?), hay "Do you like Viet Nam?" (Bà có thích Việt Nam không?). Bà Mai Linh thấy các em thật đáng yêu và không quản ngại vất vả để mỗi tuần lại vượt qua quãng đường mấy chục cây số đến với học trò của mình cũng như dạy học trong một điều kiện vật chất thật khó khăn. Khi tôi hỏi: "Tại sao bà không dạy ngay tại Hà Nội bởi ở thủ đô cũng đâu có thiếu gì trẻ em mồ côi?, bà đã trả lời hết sức đơn giản: "Vì ở đây đã có đủ giáo viên rồi, còn ở Vĩnh Phúc thì chưa có". Bà cũng nói thêm rằng còn lý do nữa là vì mình sinh trưởng tại vùng nông thôn miền bắc Thụy Sĩ nên rất thích tận hưởng không khí trong lành và yên tĩnh đặc biệt của làng quê cũng như "thích nhìn cảnh đồng lúa và con trâu". Ngoài lớp học tình thương dành cho trẻ em mồ côi, bà còn phụ trách một số lớp do UNESCO đứng ra tổ chức và một số lớp luyện nói cho những người Việt Nam quen biết chuẩn bị đi công tác nước ngoài. Điều đặc biệt là tất cả các lớp học trên, bà đều không nhận bất cứ một chi phí nào của Chính phủ Việt Nam và các tổ chức ở Thụy Sĩ. Bà giải thích rằng, có một số người bạn Thụy Sĩ ủng hộ và giúp đỡ bà mọi phí tổn đủ chi dùng cho cuộc sống tại Việt Nam. Bà là người tình nguyện đi làm công tác từ thiện nên không muốn học trò của mình cũng như người khác đả động tới vấn đề tế nhị đó.

Hàng tuần, ngoài những lớp dạy tiếng Anh và học tiếng Việt, bà còn nghiên cứu thêm bộ môn lịch sử và văn học Việt Nam. Thời gian rỗi, bà thường tự nấu ăn, đọc sách văn học, xem tin tức... Thêm nữa, mặc dù không còn trẻ, song bơi lội vẫn là sở thích của bà. Ngoài ra, bà còn biết chơi nhạc cụ như ghi-ta, ác-coóc-đê-ông và sáo tây. Khi được hỏi ấn tượng của bà về người Việt Nam nói chung và phụ nữ Việt Nam nói riêng, bà nói: "Tôi rất yêu người Việt Nam, người Việt các bạn vô cùng hiếu khách và thân thiện. Từ những cô bán hàng, người hàng xóm hay các đồng nghiệp đều hết sức dễ mến".

Bà đã tiếp xúc với người Việt Nam đủ mọi lứa tuổi và cho rằng ai cũng đáng yêu cả. Tuy nhiên, bà cũng nhận xét: Phụ nữ Việt Nam phải chịu nhiều vất vả hơn phụ nữ Thụy Sĩ, đặc biệt là chỉ một thời gian ngắn sau khi sinh con, họ đã phải quay trở lại với công việc ngay nên ít có thời gian để chăm sóc con cái. Mặc dù chưa hề một lần lập gia đình, song bà cảm thấy rất hạnh phúc vì có khá nhiều cô bé, cậu bé đã gọi bà bằng Mẹ, thế nên bà nói rằng: "Tôi có rất nhiều con".

Nguyễn Tường