Anh Nguyễn Huy Anh bên cô con gái nhỏ Nguyễn Phương Ly

Số phận đã sớm cướp đi của Nguyễn Huy Anh cái khát khao bình thường của một con người ấy là được đứng lên bằng đôi chân của mình. Bằng nghị lực của bản thân hơn nữa là sự sẻ chia của người mẹ, người vợ, những “hạt giống hy vọng” đã được “nảy mầm” từ sự sống tưởng đã tuyệt vọng kia…

Giúp con “đứng lên”

Hà Nội một sáng mùa thu. Trong ngôi nhà nhỏ bé số 14 tổ 39 phường Yên Hòa ấy có tiếng trẻ thơ cười đùa ríu rít. Thoáng chốc ngập ngừng, tôi gõ cửa. Rồi anh xuất hiện trong chiếc áo ba lỗ, vừa từ trên cầu thang đi xuống, chậm chạp nhưng chắc chắn: đôi bàn tay thay… đôi chân còn đôi chân thì teo tóp.

Ngồi tiếp chuyện tôi, bà Bùi Thị Phương vừa vuốt tóc cô cháu gái 5 tuổi Nguyễn Phương Ly, con anh Huy Anh vừa nhớ lại: “Lúc vợ chồng tôi sinh cháu Anh cả nhà ai cũng mừng. Mọi thứ trôi qua êm đẹp thì đến khi được sáu tháng rưỡi tuổi cháu bị viêm não Nhật Bản B. Hồi ấy chỉ có ba mẹ con tôi trên Thái Nguyên (nơi bà tình nguyện lên dạy học ở Trường THPT Phú Bình) còn ông nhà tôi đã chuyển về nhà ở Hà Nội công tác trước đó rồi”.

Tức tốc đưa các con về Hà Nội chạy chữa, lòng tự nhủ mình dù có phải bán hết nhà cửa thậm chí “ra đường ở” miễn là con khỏi bệnh thì “giá nào” bà cũng chấp nhận đánh đổi. Nhưng hết đi bệnh viện Xanh Pôn, Việt-Đức, viện châm cứu, thủy châm… vậy mà tất cả những gì bà nhận được là đôi chân cậu con trai nhỏ cứ ngày một teo đi. “Năm nó lên lớp năm hay sáu nhỉ, thì chúng tôi mới dừng mọi sự chạy chữa, cũng may là bệnh đã không ảnh hưởng lên não của Huy Anh”. Biết bao đêm bà giấu chồng con khóc một mình, khóc thương con, thương mình, khóc cho cái số phận của cuộc đời.

Từ khi con đổ bệnh, cơ quan linh động ký giấy cho bà chuyển về Trường THPT Yên Hòa (Hà Nội) để tiện việc chăm sóc con. Ngày ngày, mẹ trở thành đôi chân của Anh trên đường đến trường. Tấm lưng của người mẹ đã ngoài lục tuần ấy, qua năm tháng và sương gió cuộc đời đã còng rạp. Vất vả, cực khổ là thế nhưng chưa bao giờ người ta thấy bà kêu khó, kể khổ: “Nếu mình kêu khổ thì làm sao động viên các con học tập, cố gắng vươn lên trong cuộc sống được?”. Mười hai năm Anh đến lớp cũng là bấy nhiêu năm bà cõng con đi, về. Nắng hay mưa, mùa hè hay mùa đông bà âm thầm làm đôi chân cho con đến trường. Và chỉ có tình thương bao la của người mẹ hiền mới giúp bà có được cái “sức khỏe” ấy. Tôi tự nghĩ thế.

Niềm vui và nụ cười đã nở trên khuôn mặt khắc khổ, đầy nếp nhăn ấy khi thấy cậu con trai khoe với bà những bài làm được điểm chín, mười. “Thế là trời còn thương con mình chú ạ”. Tấm gương người thầy viết chữ bằng đôi chân Nguyễn Ngọc Ký hay những tấm gương học trò nghèo vượt khó luôn là ví dụ cũng là bài học bà dạy cho con.

Chàng trai không đầu hàng số phận

“Nhiều lúc cũng thấy chán nản nhưng cứ nghĩ đến gia đình, đến mẹ cha và sự động viên của mọi người mình lại tự động viên mình: không được gục ngã”-Nguyễn Huy Anh tâm sự. Thương mẹ nên anh quyết tâm học thật giỏi để mẹ vui. Những năm học phổ thông anh luôn ở tốp học giỏi nhất của lớp, được thầy yêu bạn mến. Những lúc bạn bè nô đùa, chạy nhảy vui chơi, Anh vùi mình vào trang sách, tranh thủ học.

Kỳ thi đại học đến, bạn bè trong lớp bàn nhau đăng ký trường này, trường kia. Riêng một mình Anh ôm nỗi buồn: “Nếu đỗ đại học suốt ngày phải leo cầu thang, rồi phải thay đổi phòng suốt, một mình sức mẹ làm sao cõng con được đây?”. Bà Phương nghẹn ngào trong tiếc nuối: “Chỉ tại lúc đó mình tính không ra. Mình không cõng được thì thuê người ta cõng”. Nhưng làm sao người ta chăm con bà được bằng người mẹ đã mang nặng đẻ đau ra anh. Vậy là anh không thi đại học nữa.

Về nhà chẳng lẽ chỉ biết bó gối ngồi nhìn cuộc đời trôi chảy sao? Nhất định là không, Anh tự nhủ với mình. Nhưng làm gì được với đôi chân và sức vóc của mình? Ai dám thuê một người như anh? Rồi chiếc xe tự chế được ra đời. Có xe, anh lái xe đi đón mẹ, đón chị, tự do đi lại một mình trên “đôi chân” mới. Làm đủ mọi việc từ đón đưa mọi người trong nhà, đi bán sách, báo… Cuối cùng thì Anh mới quyết định trụ lại với cái nghề này: “Một người bạn thân của nhà trước làm nghề xe ôm ở cổng Bảo tàng Dân tộc học giới thiệu và giúp mình có một chân chạy khách du lịch ở đấy. Mình và gia đình tính thấy hợp nên “quyết” luôn”. Từ năm 2003, ngày ngày, cạnh cổng của địa chỉ số 9, Phạm Văn Huyên vẫn có một con người âm thầm đứng đó, sẵn sàng phục vụ bất cứ vị “thượng đế” nào có nhu cầu ngồi xe anh. Làm việc khiến Anh quên đi cái mặc cảm của một người khuyết tật, thấy mình có ích hơn.

Cộng thêm vốn tiếng Anh đã học trong vòng hai năm nên Anh càng thấy yên tâm khi khách chủ yếu của mình là những vị khách nước ngoài. Anh giới thiệu với họ về Thủ đô Hà Nội.

Đám cưới giản dị của anh với cô gái cùng tuổi là Đỗ Thị Lựu, người Hưng Yên diễn ra thật giản dị mà đầm ấm. Chị đã bỏ ngoài tai bao nhiêu lời bàn tán, ì xèo rằng lấy anh: sẽ khổ, sẽ vất vả, để đến sẻ chia những vui buồn với Huy Anh. Về Hà Nội, chị xin được chân tạp vụ cho một trường tiểu học gần nhà. Trưa nào cũng thế, từ ngày anh đi lái xe ôm ở cổng Bảo tàng Dân tộc học chị đều mang cơm ra cho chồng: “Biết là về nhà ăn cơm thì vui hơn, nhưng anh ấy bảo khoảng thời gian này khách họ mới ra về nhiều, nên phải ăn nhanh, nếu khách cần thì mình đi luôn”. Một triệu tiền lương mỗi tháng của chị cộng với tiền lái xe ôm của chồng “bữa thất, bữa đắc” mọi chi tiêu trong gia đình đều phải tiết kiệm để dành lo cho các con. Bé Nguyễn Kỳ Anh giờ đang học lớp ba ở Trường tiểu học Kim Đồng. Còn em gái Nguyễn Phương Ly mới lên năm, đang học lớp mẫu giáo lớn. Đó là “tài sản lớn nhất” của anh chị và cả gia đình. May mắn làm sao, bé nào cũng lành lặn, khỏe khoắn, xinh đẹp.

Chị Lựu cười tươi thật thà: “Anh ấy tâm lý lắm. Năm nào sinh nhật vợ, con, ngày Quốc tế phụ nữ, lễ tình yêu anh đều mua hoa, quà tặng mẹ con tôi. Có lần anh ấy mua về một bó hoa thật to tặng tôi. Trong lúc tôi còn chưa nhớ ra vì dịp gì thì anh ấy đã đỡ lời: Tặng em kỷ niệm một năm ngày chúng ta quen nhau”.

Tôi thầm cảm ơn cuộc đời đã cho họ gặp được nhau, cảm ơn người phụ nữ thật thà chân chất ấy, chị đã nguyện gắn đời mình với anh. Chúc cho cái tổ ấm bé nhỏ ấy của họ mãi mãi hạnh phúc!

PHONG DOANH