QĐND - Chiến tranh đã lùi vào quá khứ, một sức sống mới căng tràn trên quê hương Hà Giang tươi đẹp nơi địa đầu Tổ quốc. Góp công cho sự đổi thay trên những miền đất chết bởi bom mìn, vật nổ có những chiến sĩ Đại đội 19, Bộ CHQS tỉnh Hà Giang. Những chiến công của họ đã được ghi tạc bằng xương máu, mồ hôi và tuổi xuân. Gặp những người đi diệt trừ những di họa chiến tranh, tôi có thật nhiều xúc cảm.

Thượng tá Nguyễn Sơn Hà, Phó chủ nhiệm chính trị Bộ CHQS tỉnh Hà Giang, nói: Nếu viết về tấm gương bình dị mà cao quý tôi xin giới thiệu anh về đại đội 19 Công Binh, “con cưng” của nhân dân tỉnh Hà Giang. Mà các nhà báo cũng gặp may lắm nhé, đơn vị đang đóng quân tại doanh trại để thực hiện nhiệm vụ huấn luyện. Chỉ mấy ngày nữa thôi, đơn vị sẽ cơ động lên các trận địa trên biên giới, cuối năm mới về.

Thiếu tá Vũ Hồng Mạnh.

Chúng tôi tức tốc xuống ngay “đại đội con cưng của nhân dân tỉnh”. Cũng thật may là Thiếu tá Vũ Hồng Mạnh, Đại đội trưởng, vừa mới từ xuôi lên. Đơn vị đang rốt ráo chuẩn bị cho những bước huấn luyện cuối cùng, sẵn sàng cơ động nhận nhiệm vụ.

Đại đội trưởng Vũ Hồng Mạnh, được anh em toàn quân khu mệnh danh là “dị nhân phá bom mìn”. Ba năm liền đơn vị nhận cờ quyết thắng, năm năm “làm sạch” được 316 héc-ta đất canh tác cho bà con các dân tộc vùng cao. Bản thân Thiếu tá Vũ Hồng Mạnh đã nhận được nhiều bằng khen của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tư lệnh quân khu, UBND tỉnh và Bộ CHQS tỉnh. Đại đội 19 đã đi nhiều bản làng, tới đâu cũng được dân thương, dân nhớ, được đùm bọc chở che. Hình ảnh những chiến sĩ công binh trên cao điểm đã trở thành biểu tượng đẹp về người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam trên địa đầu biên giới. Sự đoàn kết nhất trí giữa cán bộ đại đội từ Chính trị viên Vi Bình Chiến, Phó đại đội trưởng Vàng Văn Công và Đại đội trưởng Vũ Hồng Mạnh đã trở thành động lực để anh em chiến sĩ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Và đối với công binh, chỉ được coi là hoàn thành nhiệm vụ khi chiến trường không còn tiếng nổ bất ngờ.

Thiếu tá Vũ Hồng Mạnh người rất thông minh. Tôi cảm thấy vậy không phải vì ánh mắt tươi sáng hồn hậu và lối ăn nói khúc chiết của anh, mà chính là từ khi nghe những kinh nghiệm xử lý bom mìn của anh. Anh kể rằng, bản thân vật gây nổ dù hình dáng, cấu trúc, màu sắc có phức tạp đến đâu thì cũng chỉ có một vài cơ chế gây nổ nhất định, mình cứ vận dụng kiến thức cơ bản cộng thêm tìm tòi nghiên cứu trên thực tế sẽ tìm ra cách để “trị chúng”.

Điểm cao 1509 của ta nằm sát cửa khẩu Thanh Thủy là nơi chiến sự từng xảy ra vô cùng ác liệt. Đạn pháo biến đá thành vôi, mìn bom chưa nổ biến đất sống thành đất chết. Vũ Hồng Mạnh kể: “Có những xẻng đất chúng tôi xúc lên 5 quả mìn, đầu đạn chưa nổ nhiều chi chít. Mìn đủ chủng loại, kiểu dáng. Thời gian đã góp phần xóa mờ cấu trúc ban đầu. Mỗi lần nhặt được quả mìn “lạ” chưa hiểu được cơ chế nổ của nó là không tài nào mình ngủ được”. Cứ sau mỗi đêm mất ngủ là kiến thức thực tế về bom mìn của Vũ Hồng Mạnh lại tăng lên. Kiến thức đó được anh kiểm nghiệm, khi xác định đây là phương pháp chuẩn lập tức phổ biến cho anh em trong đại đội. Nhiều chiến sĩ đại đội 19 cũng trở thành khắc tinh của bom mìn cũng nhờ vào cái “tài truyền nghề” của Đại đội trưởng Vũ Hồng Mạnh.

Đương nhiên, để có một Vũ Hồng Mạnh như bây giờ, chúng ta cũng phải chứng kiến nhiều đau thương mất mát. Năm 1997, tốt nghiệp trường Sĩ quan Kỹ thuật Công binh, Vũ Hồng Mạnh được biên chế về đại đội 19, Bộ CHQS tỉnh Hà Giang. Thời điểm này đại đội trưởng là anh Nguyễn Đăng Hải, một con người xuê xoa dễ gần và cũng bộc trực nóng nảy, chủ quan. Chính sự chủ quan của cấp chỉ huy đã khiến nhiều anh em làm vội vã dẫn đến mất an toàn. “Nhiều tiếng nổ bất ngờ” đã cướp đi những phần thân thể của các chiến sĩ trong trung đội do Vũ Hồng Mạnh phụ trách ngày ấy như chiến sĩ Nguyễn Văn Hoành, Hoàng Seo Thường; cướp đi một chân của anh Thọ, Đại đội phó… Vũ Hồng Mạnh chứng kiến những cảnh đồng đội hy sinh, bị thương hết sức thương tâm. Hình ảnh ấy ám ảnh anh trong những lần ra trận địa. Mỗi lần như vậy anh em chiến sĩ thường trêu ghẹo: “Anh lên tảng đá mà ngồi không lại mất chân bây giờ”. Lời trêu đùa đó té ra lại có sức mạnh. Anh dò dẫm từng bước, từng bước một. Từng mét đất lùi lại phía sau. Cây thuốn run run khi gặp những vật cản. Nào đất đá, nào mảnh gỗ, nào miếng sắt, mảnh đạn, rồi mìn, đầu đạn… cứ dần dần theo tay anh mà phơi trần dưới ánh sáng mặt trời. Nỗi sợ hãi lui dần mà thay vào đó là những cảm giác tự tin, phấn khích...

Những kinh nghiệm đầu đời binh nghiệp đó, giờ lại được anh truyền lại cho cán bộ, chiến sĩ trong đại đội 19. Anh nói: “Mìn có đáng sợ không? Rất đáng sợ. Nhất là khi nó nổ. Tôi cũng đã từng sợ. Vậy nên anh em không phải ngại ngần khi nói rằng mình sợ hãi. Nếu không muốn làm, anh em có thể phục vụ cơm nước, nhìn tôi và các đồng đội làm”. Những lời nói chân thành đó khiến nhiều chiến sĩ cảm động. Anh làm đúng như đã hứa. Nhưng ra thực địa rồi, nhiều người cũng được anh động viên vượt qua sợ hãi. Từ tò mò đến say mê. Nhiều người được anh em phong tặng danh hiệu “dũng sĩ diệt bom mìn”.  Tuy vậy, vấn đề tâm lý vẫn là một lực cản lớn đối với anh em chiến sĩ. Bằng tấm lòng chân thành của người anh cả đối với những người em, Vũ Hồng Mạnh đã giúp nhiều người vượt qua rào cản tâm lý. Anh kể lại kinh nghiệm, có rất nhiều biện pháp. Từ tâm sự hằng đêm với anh em cho tới việc huấn luyện những yếu lĩnh động tác nơi chiến trường. Anh nhận xét: “Dù tuyên truyền, thuyết phục có những hiệu quả nhất định nhưng rút cuộc, người cán bộ vẫn phải gương mẫu “đi trước về sau”. Bản lĩnh của người chỉ huy là bằng chứng thuyết phục sinh động nhất, rõ ràng nhất”.

Cán bộ, chiến sĩ đại đội 19, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hà Giang trong giờ huấn luyện.

 

Tại nhiều cao điểm ở Xín Mần, Hoàng Xu Phì, Mèo Vạc, Phù Lũng, chân núi Bạc ở Yên Minh là những điểm tập trung nhiều mìn, Thiếu tá Vũ Hồng Mạnh cùng các chỉ huy đại đội dẫn đầu anh em tấn công vào trận địa. Sự dũng cảm đó đã thuyết phục mọi người làm theo với một tâm thế đầy nhiệt tình, trách nhiệm.

Có một hình ảnh rất nên thơ mà nhiều người dân Hà Giang còn nhắc. Đó là hình ảnh các chiến sĩ công binh đi trước mở đường, người dân theo sau ươm trồng các loại cây nông sản nơi đất chết, những người chiến sĩ trườn mình băng qua để lại phía sau là những nương ngô, đồi cây rực rỡ bung lộc biếc.

Dân thương bộ đội bằng một tấm lòng chân thật. Bất cứ nơi nào đại đội đóng doanh trại dân lại tụ hội về: Khi cho con gà, lúc biếu gùi rau, hay đơn giản chỉ là xem phim, nói chuyện. Có vùng thấy bộ đội đến, quí hóa quá, mà nhà nghèo chẳng có gì, liền ôm cả đàn gà con ra nằng nặc “bắt” các anh phải ăn. Ai nấy nhìn nhau, cười ra nước mắt. Đành nhận. Đàn gà con các anh nuôi đến khi gà trống biết gáy, gà mái cục tác cục ta đòi nhảy ổ lại đem biếu lại cho dân. Bà con mình thật bụng, nhiều người còn tự ái vì cho gà mà các anh không ăn, lại còn nuôi cho lớn để biếu dân. Không nhận. Phải thuyết phục mãi, bảo rằng gửi bà con nhờ nuôi giúp đến lúc nào về làm tiếp thì xin lại, bà con mới ưng cái bụng.

Thiếu tá Vũ Hồng Mạnh quả là một tấm gương bình dị. Nhưng quả là thiếu sót nếu không kể đến tấm gương chị Trần Thúy Hà, vợ anh. Tấm gương chị Hà cũng đáng để cho những người-vợ-chiến-sĩ “nghiên cứu, học hỏi”.

Hai người quen nhau từ năm 1993. Hồi đó anh Mạnh còn là học viên trường Sĩ quan Kỹ thuật công binh đóng ở Bình Dương, Sông Bé. Qua môt người đồng đội-đồng hương Lập Thạch (Vĩnh Phúc), anh Mạnh biết tới gia đình chị Hà. Những lần về phép, nghỉ hè, hai người vẫn đèo nhau đi chơi. Lúc đầu “vô tư” lắm. Vì Vũ Hồng Mạnh “trót” nhận bố mẹ của Trần Thúy Hà làm bố mẹ nuôi. Hai người coi nhau như anh em. Sự “vô tư” đó kéo dài đến năm 1997, hai người cùng tốt nghiệp đại học: Chị ngành sư phạm, anh ngành công binh. Trong một đêm trăng khác lạ, hai người đã trao nhau câu nguyện thề. Anh mộc mạc chất lính. Chị cương quyết đầy bản lĩnh con nhà bộ đội. Anh nói: “Công binh nay đây mai đó, đóng quân xa nhà, em có xác định được những khó khăn đó không”. Chị nói: “Anh phải cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ nhé”. Đám cưới của họ được tổ chức năm 1998. Lúc này anh đã vững chân ở Hà Giang. Còn chị cũng đã được nhận vào làm giáo viên trường tiểu học Bắc Bình, Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Nay anh chị đã có hai con, trai 10 tuổi, gái 4 tuổi. Suốt 13 năm anh đóng quân trên tỉnh Hà Giang, chị lên thăm được 3 lần (trong đó có 2 lần là ngay sau ngày cưới). Đến nay anh đã trở thành Đại đội trưởng với quân hàm thiếu tá, chị cũng đã trở thành Hiệu trưởng Trường tiểu học Ba Làng (xã Bắc Bình). Mỗi người một mặt trận, đều hăng say công tác. Những lời yêu thương họ dành cho nhau là những lời động viên lẫn nhau hăng say công tác.

Một năm có 12 tháng, một năm anh có chừng 300 ngày hành quân trên những rẻo cao biên giới. Một năm họ chỉ có dịp gặp nhau vài lần. “Sợi chỉ đỏ” nào đã làm nên cầu nối yêu thương? Sợi chỉ xanh nào đã kết nên duyên bền chặt? Đó hẳn phải là niềm tin tưởng và những phút giây hạnh phúc mong chờ!

Hai vợ chồng Vũ Hồng Mạnh, Trần Thúy Hà thật khiến người ta phải nể phục, yêu mến.

Bài và ảnh: Lê Đông Hà