QĐND - Có người vừa sinh ra đã phải chịu cảnh tật nguyền và cũng có người gặp phải tai nạn rủi ro trong cuộc sống… Những con người bất hạnh ấy luôn ước mơ được trở lại bình thường như bao người bình thường khác.

Và có một người, tuổi đã cao, vẫn ngày đêm trăn trở tìm kiếm, với nỗ lực không mệt mỏi để biến ước mơ cháy bỏng kia thành hiện thực.

Người không chọn giàu sang

Sinh ra và lớn lên ở huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, năm 1962, Lê Đức Tố thi đỗ vào Đại học Y Hà Nội và tốt nghiệp khoa Phẫu thuật thực hành. Chưa đầy ba năm ra trường, ông đã đi hết Đại học Y Thanh Hóa, đến Đại học Y Thái Bình để phụ trách giảng dạy bộ môn “mổ xẻ”.

Bác sĩ Lê Đức Tố

Năm 1974, khi đất nước còn đang chiến tranh, Lê Đức Tố là người duy nhất của Đại học Y Thái Bình được Nhà nước cử đi nghiên cứu sinh ở nước ngoài. Ông có hai lựa chọn, hoặc Liên Xô (trước đây), hoặc Đức. Những người thân của ông biết chuyện đều khuyên ông đi Đức. Bởi ở thời điểm đó, đi Đức là lựa chọn số một cho con đường vừa nghiên cứu vừa kết hợp làm kinh tế. Thế nhưng, gạt đi những lời khuyên chân thành ấy, Lê Đức Tố đã chọn Liên Xô. Lý do thật đơn giản, vì chỉ Liên Xô mới có những phương pháp phẫu thuật mới và tiên tiến nhất.

Năm 1979, Lê Đức Tố tốt nghiệp xuất sắc và trở thành phó tiến sĩ y khoa đầu tiên của Việt Nam về chấn thương chỉnh hình, khi 37 tuổi. Về nước, ông trở lại Đại học Y Thái Bình với vị trí là chủ nhiệm liên bộ môn ngoại phẫu thuật thực hành và chấn thương chỉnh hình. Vừa dạy, vừa làm và nghiên cứu khoa học, công việc bận rộn chiếm phần lớn thời gian của ông. Thế nhưng, ông suy nghĩ rằng, đằng sau chiến tranh là bao trẻ vô tội bị khuyết tật, vì thế, ông luôn đau đáu, trăn trở và ấp ủ một ý chí mạnh mẽ quyết tâm nghiên cứu và áp dụng khoa học để đưa các cháu trở lại với cuộc sống bình thường bằng chính đôi chân và đôi bàn tay của chúng.

Vì muốn đạt được đỉnh cao của kỹ thuật mổ cho người tàn tật, Lê Đức Tố lại khăn gói trở lại Liên Xô học. Và bằng chính sự yêu nghề đã giúp ông mang về tấm bằng tiến sĩ y khoa loại ưu.

Trở về nước, bác sĩ Lê Đức Tố đã tạo những bước tiến dài cho ngành y học chấn thương chỉnh hình nước nhà. Ông là người đầu tiên áp dụng hàng loạt kỹ thuật y khoa mới, tiên tiến ở điều kiện thể trạng con người Việt Nam theo phương pháp I-li-da-rốp (Ilizarov) của Liên Xô, nhằm phục hồi chức năng hệ vận động cho những người khuyết tật do bại liệt, bại não, di chứng chấn thương, khoèo tay chân, lật bàn chân, kéo dài chi; điều trị thành công những ca bị co rút khớp chân, hàn khớp trục cổ chân, thay khớp, sử dụng kỹ thuật laser để chữa đau cột sống... Trong đó, đặc biệt là phương pháp kéo dài chi, kỹ thuật này được hiểu là tạo một chỗ gãy xương (theo hình chữ Z) ở phần chi muốn kéo dài thêm, sau đó dùng thiết bị ngoại vi đặc biệt kéo dài hai phần xương dài ra thêm mỗi ngày 1mm, mạch máu gân cơ thần kinh cũng dài theo tỷ lệ tương ứng. Sau một thời gian, cùng với thuốc và dưỡng chất, khoảng cách giữa hai đoạn xương đã cắt sẽ được lấp kín, nối liền. Trong số các bệnh nhân được kéo dài chân có em Nguyễn Thị Xoàn (21 tuổi, sinh năm 1989), có một bàn chân bình thường, chân còn lại chỉ có hình bàn chân sát ngay đầu gối. Bác sĩ Tố đã dùng xương mác bàn chân lành thay vào chân kia để giúp em Xoàn có được đủ một đôi chân dài gần 40cm, tính từ đầu gối đến bàn chân và giúp em đi lại được dễ dàng.

Cánh chim miệt mài bay

Hơn 40 năm làm nghề, mổ khoảng 40.000 ca, tuy chưa có con số thống kê nào của ngành y học, nhưng chắc chắn, bác sĩ Lê Đức Tố đứng ở hàng đầu những bác sĩ phẫu thuật nhiều nhất Việt Nam. Mà không chỉ có thế, địa bàn phẫu thuật của ông còn trải khắp toàn quốc, có lúc vươn ra nước ngòai, như Mỹ, Nhật, Ô-xtrây-li-a…, theo các chương trình phẫu thuật từ thiện của các tổ chức phi chính phủ. Và điều đáng trân trọng hơn, những bệnh nhân của ông hầu hết là người nghèo, được mổ miễn phí và… ông đã tự tìm đến với họ.

Bệnh nhân bị lõm lồng ngực được BS Tố phẫu thuât

Trong cuộc đời cầm dao kéo của mình, bác sĩ Lê Đức Tố gặp hầu hết ca khó. Ca khó đầu tiên “tạo dựng” nên tên tuổi của ông là ca ông mổ từ năm 1982. Năm ấy, ở Thái Bình, trong lúc phụ giúp gia đình xay gạo ăn Tết, một nữ sinh viên ngành y bị dây cua-roa cuốn cả đầu tóc vào chiếc máy xay. Trên đầu chị không còn một mảng da, trơ ra nguyên hộp sọ.

Sau 6 giờ “toát mồ hôi”, cuối cùng ê-kíp mổ do bác sĩ Tố chỉ đạo đã kết thúc thành công, mái tóc của nữ sinh được “hồi sinh”. Sự kiện y học này đã gây chấn động cả tỉnh Thái Bình.

Năm 1986, ông chuyển công tác vào Bệnh viện Thống Nhất Thành phố Hồ Chí Minh. Việc này, có thể nói, đã làm thay đổi cả cuộc đời ông. Cái duyên đã đưa bác sĩ Lê Đức Tố đến với những đứa trẻ tội nghiệp. Ông kể, hồi đó, cứ mỗi ngày đi làm ngang qua Trung tâm Chỉnh hình và phục hồi chức năng trẻ bại liệt ở số 1A Lý Thường Kiệt, quận Tân Bình là đôi bàn chân của ông nặng trĩu, dường như không muốn bước đi nữa khi nhìn thấy những đứa trẻ bò lết bằng đầu gối và bàn tay, hoặc đi bằng mu bàn chân… Ông bèn tranh thủ thời gian sau những ca trực chạy sang khám giúp, chỉ dẫn cách điều trị và chọn những ca nặng nhất còn cơ hội phục hồi để trực tiếp phẫu thuật miễn phí. Từ một, hai em mỗi tuần, dần dà ông trở thành người mổ chính của trung tâm này lúc nào không hay.

Khoảng giữa thập kỷ trước, cả nước xôn xao về bệnh “xệ cánh” (theo cách gọi dân dã, còn theo thuật ngữ y học là “xơ hóa cơ Delta"). Đây là một bệnh lý ở vùng vai, thể hiện ở chỗ xương bả vai bị kéo nghiêng ra ngoài làm cho vai xệ xuống. Có cháu bị một bên, cũng có cháu bị xệ cả hai vai. Bệnh “xệ cánh” tập trung nhiều ở khu vực Bắc Trung Bộ với hàng chục nghìn bệnh nhi. Khi đó, chưa có một quy trình chẩn đoán và phẫu thuật, kỹ thuật cụ thể nào để chữa dị tật này và chi phí phẫu thuật lên đến 7 triệu đồng/ca. Từ những thực tế và kinh nghiệm, bác sĩ Lê Đức Tố đã nghiên cứu, viết thành công quy trình chẩn đoán và phẫu thuật cho những bệnh nhân bị xơ hóa cơ Delta với chi phí giảm xuống gấp nhiều lần, chi phí chỉ còn 600.000 đồng/ca để trình lên Bộ Y tế.

Tháng 5 -2007, Bộ Y tế đã có quyết định giao cho bác sĩ Lê Đức Tố tổ chức chuyển giao kỹ thuật mổ xơ hóa cơ Delta cho các cơ sở y tế ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước. Ông lại đặt chân đến nhiều tỉnh, thành phố để trực tiếp chỉ đạo mổ cho hơn 3.500 ca, đồng thời tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chẩn đoán, phẫu thuật xơ hóa cơ delta mới cho các y bác sĩ địa phương trong quá trình phẫu thuật cho các em nhỏ. Nhờ đó, các trường hợp trẻ em bị xơ hóa cơ delta đã được chữa trị kịp thời.

Ở cái tuổi ngoại lục tuần, bác sĩ Lê Đức Tố vẫn miệt mài với những hành trình trị bệnh, cứu người. Thoáng thấy bóng ông ở Nghệ An đã lại gặp ông ở Bình Dương. Thoắt gặp ông ở Thành phố Hồ Chí Minh đã nghe tin ông sang giúp ngành y tế nước bạn Cam-pu-chia… Giữa cuộc sống sôi sục vì đồng tiền, ông vẫn chăm chút và kiên trì thả bước trên con đường từ thiện. Bởi, 40 năm qua, trong tim ông luôn vang vọng lời của Giáo sư I.G.Gerxen, người thầy dạy ông ở Ðại học Y Ô-đét-xa (Liên Xô): “Tiêu chuẩn của một bác sĩ ngoại khoa trước tiên là phải có cái đầu của nhà khoa học, thứ hai là phải có trái tim người mẹ và thứ ba là phải có đôi bàn tay của người phụ nữ”.

Tôi có may mắn được đọc những lá thư đầy nước mắt hạnh phúc của nhiều cháu, nhiều em gái trong số gần 40 ngàn bệnh nhân kia, đặc biệt là các bệnh nhân tật nguyền (do dị tật bẩm sinh và di chứng, do sốt bại liệt); rất nhiều em đã gọi bác sĩ Lê Đức Tố là “Ông Bụt, Ông Tiên”, đã biến ước mơ của các em thành hiện thực! Nhiều phụ huynh và một số đồng nghiệp đã gọi bác sĩ Tố với cái tên thân thương, trân trọng: “Ông tiên của các cháu tật nguyền”. Với những cống hiến liên tục hơn 40 năm qua, vì trẻ em khuyết tật và đặc biệt là những thành tựu trong lĩnh vực chấn thương chỉnh hình của y học nước nhà, nhân dịp Ngày Thầy thuốc Việt Nam (27-2-2011), Tiến sĩ Lê Đức Tố đã vinh dự được Nhà nước ta trao tặng Huân chương Lao động hạng ba.  

Tôi xin phác thảo một vài nét chính về tấm lòng “người mẹ hiền” của ông bụt, ông tiên”-Bác sĩ Lê Đức Tố.

Sĩ Bình - Huy Đăng