1. Hơn một lần viết về ông, cũng nhiều hơn một lần đối thoại, nhưng ông già phúc hậu người Anh vẫn cứ luôn là một ẩn số. Cũng bởi cái việc ông đang làm cứ tự nhiên như vốn nó phải là như vậy. Ông già - "ông Tây" ấy, bao năm nay, vẫn miệt mài "vác tù và" đi đòi công lý cho nạn nhân chất độc da cam Việt Nam. 81 tuổi, 22 năm gắn bó với “những người đứng bên lề của hạnh phúc” ấy, Len An-đi-xơ (Len Aldis) bảo mối duyên này sẽ đi theo ông suốt đời.

Tôi biết ông cũng từ những hoạt động có liên quan đến nạn nhân da cam Việt Nam. Thư qua thư lại riết rồi trở thành thân quen. Soạn email hỏi ông vài câu chuyện để viết thành bài, Len nhắn lại bằng một biểu tượng thể hiện nụ cười. Ừ, đâu cần hỏi. Những câu chuyện “vặt” Len từng lơ đãng kể trong những buổi café khi ông ghé Hà Nội hay những việc ông làm từng được báo chí Việt Nam thông tin, ngần ấy thứ đã quá thừa viết nên một chân dung hoàn chỉnh về ông Tây đi đòi công lý cho nạn nhân da cam Việt Nam.

2. Năm 1989, lần đầu tiên đến Việt Nam, Len làm một tua xuyên Việt từ Hà Nội vào TP Hồ Chí Minh để “ngắm nhìn đất nước đã quá nổi tiếng”. Len có lẽ cũng không ngờ chuyến đi đó đã buộc chặt cuộc đời ông với những day dứt từ mảnh đất vừa hồi sinh sau những năm tháng chiến tranh.

Được tận mắt chứng kiến những di hại của chất độc da cam trên con người, ông về không ngủ được. Đó là những quái thai còn lưu giữ trong Bảo tàng Chứng tích chiến tranh Việt Nam. Đó là những trẻ dị dạng ở Làng Hòa Bình - Bệnh viện Từ Dũ. Đó là cặp song sinh Việt-Đức được nhiều người biết đến qua ca mổ tách đôi đầy tình người… Những hình ảnh ấy cứ bám đuổi Len trong từng giấc ngủ và ám ảnh ông. Trở về Luân Đôn, Len đã viết những bài báo kể lại những gì mình đã được chứng kiến. Cũng từ đó, ông dành sự quan tâm đặc biệt cho Việt Nam.

Và Len đã quyết định trở lại Việt Nam. Nhiều lần đến nỗi ông cũng không thể nhớ nổi. Lặn lội vào những xóm làng xa xôi, từ Bắc chí Nam, để tiếp cận với cuộc sống hằng ngày của các nạn nhân da cam. Ông đã gặp ở đó nhiều nghịch cảnh: Đau đớn có, khổ cực có, mất mát không gì có thể bù đắp được cũng có. Ông đã phải thốt lên: Vì sao họ - những thường dân vô tội - phải chịu hình phạt? Thật khó tả được cho đúng cảm xúc của ông lúc ấy. Một sự pha trộn giữa nỗi tức giận, phẫn nộ và xót xa.

Len An-đi-xơ (bên trái) trong lần trở lại Việt Nam thăm cặp song sinh của Đức năm 2009. Ảnh: lenaldis.co.uk.

Tất cả những điều đó đã thôi thúc Len phải làm một điều gì đó, nhiều hơn là chỉ trở lại và gặp họ. “Tôi biết mình phải nói lên trước công luận về các em, về những nạn nhân ấy”, Len từng chia sẻ. Năm 1992, ông thành lập Hội Hữu nghị Anh - Việt (Britain-Vietnam Friendship Society - BVFS) để có điều kiện giúp đỡ các nạn nhân chất độc da cam tại Việt Nam một cách thiết thực nhất. Ưu tiên hàng đầu của Hội là gây quỹ giúp đỡ các nạn nhân da cam Việt Nam. Tại Anh, Hội có nhiều thành viên. “Chúng tôi tổ chức bán đồ lưu niệm, thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Số tiền thu được chuyển đến cho các nạn nhân da cam ở Việt Nam”, Len kể.

Năm 1998, Len gặp một cậu bé 8 tuổi tên Lý Văn Chính. Chính bị dị tật bẩm sinh do hậu quả chất độc da cam, một chân của em chỉ đến khoeo. Len đã đưa cậu bé đến bệnh viện làm phẫu thuật. 3 tháng sau khi trở về Luân Đôn, Len nhận được một bức ảnh, trong đó em đã được lắp chân và tay giả. Tháng 10-2001, Len gặp lại em. Chính đã có thể đứng dậy, mang sách lại cho Len. Len nói ông cảm thấy thực sự hạnh phúc bởi số tiền nhỏ bé đã có thể làm thay đổi cả cuộc đời một con người.

Khi các nạn nhân da cam Việt Nam khởi kiện các công ty sản xuất chất da cam mà quân đội Mỹ đã sử dụng trong chiến tranh Việt Nam, ông đã thành lập website http://www.petitiononline.com/AOVN/petition.html kêu gọi mọi người trên thế giới ký tên ủng hộ các nạn nhân Việt Nam. Nhờ đó, một phần nước Mỹ phải giật mình về những đau đớn đang hiển hiện từng ngày ở Việt Nam và nhờ đó mà cuộc chiến đòi công lý của các nạn nhân da cam Việt Nam được tiếp thêm sức lực. “Nếu là bạn trong trường hợp ấy, bạn cũng thế thôi, bạn cần phải làm một điều gì để góp phần xoa dịu nỗi đau này”, Len đã từng nói như thế.

3. Từng chứng kiến nhiều mảnh đời, gặp gỡ nhiều nạn nhân của chất độc da cam Việt Nam, nhưng câu chuyện Việt - Đức để lại trong ông nhiều kỷ niệm sâu sắc nhất. Cũng kể từ thời khắc đó, ông tự nhủ rằng mình sẽ mãi dõi theo từng khoảnh khắc trong cuộc đời của các em. Một tình bạn giữa ông già Tây và hai đứa trẻ da cam Việt - Đức đã được bắt đầu như thế.

Tháng 12-2006, Len trở lại Việt Nam với một niềm hân hoan khôn tả. Không vui sao được khi ông trở lại để tham dự lễ thành hôn của Đức. Mười bảy năm đã trôi qua, nhưng những hình ảnh về lần gặp đầu tiên vẫn còn hiện rõ trong ký ức Len. Len không thể quên hình ảnh Đức ngồi trên xe lăn, còn Việt thì nằm yên trong nôi. Thấm thoát mà cậu bé ấy giờ đã là một thanh niên 25 tuổi và lập gia đình. Len từng nói, đối với ông, đám cưới của Đức có ý nghĩa rất quan trọng. Nó chứng tỏ con người có thể vượt lên trên số phận để tìm hạnh phúc cho riêng mình. Khi vợ Đức sinh con vào năm 2009, Len đã gọi điện thoại chúc mừng. Trên trang web cá nhân của mình, Len đã bày tỏ sự vui sướng như một người cha già mãn nguyện thấy con cái trưởng thành. Tôi còn nhớ, trong email gửi cho tôi, Len đã nói rằng đó có thể là một trong những niềm vui mà ông sẽ luôn nhớ mãi trong cuộc đời. 

4. Len có nhiều bạn ở Việt Nam. Đó là những trẻ em nhiễm chất da cam. Ông nói những người bạn tôi còn quá nhỏ, như mầm cây mới nhú. Đáng lẽ chúng phải được học hành, sống hồn nhiên như bao trẻ bình thường khác trên trái đất này. Vậy mà từng ngày, từng giờ chúng sống với nỗi đau thân xác giày vò. Thế giới của chúng chỉ quanh cái giường nằm, căn phòng nhỏ đầy những tiếng thở dài và những giọt nước mắt của người thân, của cha mẹ. Tương lai của chúng thật mờ mịt. Lần nào cũng vậy, khi đến Việt Nam Len lại đi thăm các bạn nhỏ. Chúng vẫn luôn chờ ông.

Ông kể trong một chuyến đi Đồng Nai tìm hiểu về ảnh hưởng của chất độc da cam, trong các nạn nhân da cam ông đặc biệt chú ý đến một cô gái có tên Hoàng Loan. Cô gái ngồi xe lăn, thân thể gầy gò quặt quẹo. Cô hầu như không thể điều khiển được đôi chân và đôi tay dị dạng của mình. Vậy mà, cha cô cho biết, cô đã cố gắng rất nhiều để tập viết trên máy tính với sự giúp sức của bạn bè cô. Giờ đây, Hoàng Loan đã có thể viết ra được những ước mơ của mình dưới những câu thơ. Một trong những bài thơ có tựa là "Giọt lệ da cam":

“Ðôi mắt buồn long lanh đôi giọt lệ

Hỏi là ai đã cướp nát những giấc mơ

Bao hạnh phúc bình thường giản dị

Và tấm thân lành lặn vẹn toàn

Tôi mơ ước được học hành ca hát

Ngắm trời mây biển cả rộng mênh mông…”.

Trong xúc động, Len đã dịch bài thơ trên ra tiếng Anh có tên là "The oranged tears".

5. Năm 2009, Len gửi đến Tổng thống Mỹ Ô-ba-ma lá thư đòi hỏi có sự công bằng trong việc đối xử với các nạn nhân da cam. Tại sao những người lính Mỹ gây ra chiến tranh Việt Nam lại được hưởng trợ cấp sức khỏe, còn thường dân Việt Nam lại không? “Lá thư chưa được hồi âm từ đó”. Trong lá thư, ông đề nghị ngài Tổng thống Mỹ thu xếp đến Việt Nam và thăm các nạn nhân da cam lấy một lần. “Lúc đó, tôi tin Ngài Tổng thống sẽ thay đổi nhận thức về vấn đề nạn nhân chất độc da cam Việt Nam. Và tự lương tâm Ngài sẽ muốn làm một điều gì đó để góp phần làm dịu nỗi đau mà quân đội nước Ngài đã gây ra”, Len viết.

Nỗi đau da cam đã được nhắc tới nhiều, đã từng gây ám ảnh cho nhiều người. Nhưng với ông, đó không chỉ là nỗi đau của thể xác, của tâm hồn mà còn là nỗi đau của thời gian. Ông kể một lần đến thăm một gia đình nạn nhân da cam ở Thanh Hóa. Ba đứa con với hình hài oặt ẹo. Chúng lớn dần cùng nỗi đau theo năm tháng. Người bố, một cựu chiến binh, tâm sự: “Tôi năm nay đã ngoài 70 tuổi rồi, trong người tôi cũng mang đầy thương tích chiến tranh, lúc trái gió trở trời lại đau nhức không thể nào ngủ được”. Và điều ông lo sợ nhất là sẽ không có ai chăm sóc những đứa con của ông khi ông chết. Nỗi đau da cam nối tiếp qua nhiều thế hệ. Nỗi đau của thời gian chắc sẽ còn dài.

Cuộc đấu tranh đòi công lý của các nạn nhân da cam Việt Nam nhiều năm qua đã bước đầu có kết quả nhất định. Hồi tháng 7-2011, dân biểu Bốp Phin-nơ (Bob Filner) của bang Ca-li-phoóc-ni-a, Mỹ, Chủ tịch Ủy ban Các vấn đề cựu binh của Hạ viện Mỹ, đã đệ trình dự luật H.R.2634 lần đầu tiên đề cập đến việc hỗ trợ các nạn nhân da cam. Đặc biệt, dự luật nhấn mạnh đến việc chăm sóc y tế cho các nạn nhân da cam cả người Việt lẫn cựu binh Mỹ.

“Vụ kiện không phải là cuộc chiến đấu một ngày, một tháng hay một năm mà phải liên tục nhiều năm. Tôi và các cộng sự sẽ tiếp tục thu thập chữ ký. Giờ chúng tôi có gần một triệu chữ ký ủng hộ vụ kiện”, ông Len viết trong email.

6. Hà Nội chớm vào đông, cái hanh hao gai người của nắng và gió, bỗng chốc bị xua đi bởi một bức thư từ trời Âu. “Đừng hỏi vì sao, hãy chỉ nhìn và suy ngẫm. Là bạn, là tôi hay bất kỳ ai có lương tri, cũng sẽ làm như vậy”. Vài dòng đơn giản trả lời cho một email dài vài trăm chữ. Nhưng sao không thấy khô khốc, lạnh lùng. Chỉ thấy tràn ngập xúc động, ấm áp. Chợt hiểu, các nạn nhân da cam Việt Nam, có lẽ cũng cùng một cảm nhận như thế. Vì họ biết rằng, ở đâu đấy trên địa cầu này, vẫn có những người đồng hành cùng họ, “chiến đấu” vì họ, cảm thông và chia sẻ nỗi đau với họ. Len An-đi-xơ là một trong số những người ấy.

Tháng 12 này Len sẽ lại trở lại Việt Nam. Ông là một trong những hành khách đầu tiên trên chuyến bay thẳng đầu tiên Anh - Việt. Len nói, ông mong chờ ngày này, dù chỉ là vài giờ lưu lại ở Hà Nội. Việt Nam, có lẽ đã trở thành nơi “không thể nào quên và không bao giờ hết nhớ” như lời Len nói. Len nhắn với tôi, nếu đăng báo, hãy viết giùm ông lời này:

“Nếu bạn muốn góp một tiếng nói chung, một sự ủng hộ dù nhỏ nhất của mình, để ủng hộ với những nạn nhân chất độc da cam Việt Nam, đơn giản nhất, chỉ cần một động tác click chuột vào http://www.petitiononline.com/AOVN/petition.html. Và đồng thời, hãy gửi trang này cho bạn bè của bạn!

Sự cảm thông sẽ khiến nỗi đau dịu bớt, và những thân phận thiệt thòi sẽ luôn cảm thấy họ được tôn trọng và đối xử bình đẳng, từ những người mà họ chưa bao giờ, có thể sẽ không bao giờ, có dịp gặp mặt”.

Thu Trang