QĐND - “Lơ đễnh” là tính từ đầy trìu mến, thân thương mà bà Nguyễn Thị Khánh thường dùng mỗi khi nhắc về chồng mình-cố Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa. “Ông Nghĩa hay lơ đễnh đối với việc chăm sóc bản thân, gia đình nhưng tuyệt nhiên với công việc thì ông ấy lao động say mê và tập trung cao nhất”-bà Khánh khẳng định như vậy.
Một ngày cuối tháng 7, được sự hướng dẫn của một cán bộ tuyên huấn Trường Đại học Trần Đại Nghĩa, chúng tôi được trò chuyện với bà Nguyễn Thị Khánh trong căn nhà cũ, ấm cúng tại quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh. Gần 90 tuổi nhưng bà còn rất minh mẫn, gương mặt phúc hậu, phong thái vẫn giữ nét lịch thiệp, hiếu khách của người thiếu nữ Kinh Bắc thuở nào. Bà kể những câu chuyện về ông cho chúng tôi nghe. Thỉnh thoảng nhắc đến “thói quen xấu” của ông, bà lại nở nụ cười thật hiền và nói “Ông Nghĩa lơ đễnh lắm”. Những điều giản dị trong đời thường ấy càng khẳng định Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa là người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu về đạo đức, lối sống và tinh thần trách nhiệm trong công việc. Với ông, cuộc sống lúc nào cũng gần gũi, tình cảm và đạm bạc nhưng ông luôn cảm thấy thoải mái, hạnh phúc.
 |
Bà Nguyễn Thị Khánh bên di ảnh của Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa. |
Bà Khánh nhớ lại những ngày làm công tác quân y tại Cục Quân giới lúc ông làm Cục trưởng. Cô y tá xinh đẹp Nguyễn Thị Khánh ngày ấy đã nghe và cảm phục về tài năng của thủ trưởng. Nhưng trong mắt cô, ông Cục trưởng là một người quần áo lôi thôi, không có gì “bắt mắt”, lại lớn hơn cô nhiều tuổi. Hồi ấy, Cục Quân giới đóng trên đồi cao ở Chiến khu Việt Bắc. Để chống quân Pháp nhảy dù, ông hiến kế cắm cọc nhọn ở các khu đất trống xung quanh. Không ngờ, có lần chính ông bị va trúng cọc và người chăm sóc cho ông là cô y tá Khánh. Tình cảm hai người được bồi đắp dần và một lễ cưới đơn sơ được tổ chức ngay trong chiến khu. Trước hôm đám cưới, có người định viết thư báo với Bác Hồ, nhưng ông gạt đi: “Bác còn bao nhiêu việc lớn của đất nước, đừng làm phiền Bác việc nhỏ này”. Ông gom góp được 50 đồng đi mua quả mắc coọc để làm cỗ cưới. Bà Khánh kể: “Trong chiến khu chỉ dám mời những người thân đến chung vui. Anh em lại góp thêm mỗi người vài đồng để nhờ các anh nuôi nấu bữa cơm làm cỗ cưới. Lễ nhanh để còn kháng chiến chống giặc”.
Ở Chiến khu Việt Bắc, hình ảnh người kỹ sư “Việt kiều Pháp” miệt mài tính toán công thức tốc độ cháy, đốt thử các loại thuốc súng, ngày đêm chăm chú kẻ vẽ với cây thước tính trong tay... đã trở nên quen thuộc với mọi người. Tuy vậy, ai cũng sợ khi đi ngang căn phòng của ông vì nơi đó rất nguy hiểm. Căn phòng ấy chứa đầy thuốc nổ đủ loại, la liệt các loại đạn, hạt lửa… Trách nhiệm lúc nào cũng đè nặng lên vai ông. Bà Khánh thường lui tới chăm sóc chồng nhưng cũng chỉ ở bên ngoài phòng, phải nhờ người liên lạc mang quần áo, thức ăn, thuốc cho ông. Bà kể: “Yêu cầu vũ khí của chiến trường rất cấp bách, không ai được phép làm mất thời gian nghiên cứu quý báu của ông . Ông biết rằng, chỉ một sai sót nhỏ trong nghiên cứu chế tạo, có thể phải trả giá bằng xương máu của người chiến sĩ nơi chiến trường. Tôi chỉ lo là ông hay có thói quen hút thuốc mỗi khi tư duy mà căn phòng thì đầy chất nổ, nguy hiểm luôn rình rập. Đến cuối tháng 2-1947, cuộc thử nghiệm đạn ba-dô-ca thành công, góp phần thắng lợi cho chiến trường”.
Chính lòng say mê nghiên cứu khoa học, lao động nghiêm túc khiến ông không ít lần “lơ đễnh” với bản thân. Có đêm đang ngủ, chợt nghĩ ra một công thức nào đó, ông bật dậy ghi ghi, chép chép rồi lại ngủ tiếp. Cả tuần có khi không tắm, giày thì để cóc vào làm tổ, quần áo vứt dồn mấy ngày liền đến nỗi bốc mùi... Có lần ông gọi bà lên, hốt hoảng: “Bác Hồ sắp đến thăm đơn vị. Em giúp anh dọn dẹp căn phòng với. Bác nhìn thấy sẽ phê bình”. Đó là lần hiếm hoi, bà thấy ông bối rối về tật “lơ đễnh” của mình. Lần khác, ông đi tắm suối nhưng đến quá nửa ngày chưa thấy về. Mọi người trong chiến khu lo lắng, tổ chức đi tìm thì phát hiện ông đang ngồi trên tảng đá hý hoáy ghi chép gì đó. Hay lúc bà nhờ giữ con thì khi bà về thấy con mặt mũi lem luốc còn bố cứ mải mê đọc sách. Thương ông, thương con, bà chăm lo chu toàn việc gia đình để ông yên tâm làm việc.
Dù ở bất kỳ cương vị nào, Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa cũng luôn là một tấm gương liêm khiết và chính trực. Tiền chi phí ăn uống các cuộc họp dài ngày đều phát cho cán bộ nhưng lần nào ông bị ốm phải vắng mặt thì ông đều liên hệ với ban tổ chức đề nghị được nộp lại số tiền ấy bởi “không tham gia, cầm tiền thấy áy náy”. Ông lại là người rất chính xác về giờ giấc. Ông tranh thủ từng giờ, từng phút để làm việc. Có lí do gì không đến đúng giờ, ông đều thông báo trước. Ông rất dễ tính, ăn uống sao cũng được, không chú ý đến hình thức bên ngoài. Ông thích mặc áo bà ba. Nhưng do sống trong rừng không quen nên mỗi khi đi lại hay bị vướng gai của cây rừng làm rách áo. Bà nhớ có lần Bác Hồ thấy ông mặc áo rách đã quở trách bà: “Thím Nghĩa đâu mà để chú Nghĩa ra nông nỗi này?”. Lại nói chuyện dự họp, nhiều lần ông đến họp với chiếc mũ mới nhưng ra về lại là mũ cũ, rách mướp. Lúc đầu, bà tưởng ông nhầm, về sau bà hỏi ra mới biết: Lúc tan họp ra về, ông không nhớ cái mũ mới của mình như thế nào, sợ lấy nhầm của người khác nên ông chọn cái mũ rách nhất về cho mình. Cuối cùng, anh liên lạc phải ghi vào mũ dòng chữ “Mũ của Giáo sư Trần Đại Nghĩa” để ông đỡ bị quên.
Luôn bận rộn với công việc nhưng Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa sống rất tình cảm, yêu thương và giúp đỡ mọi người, nhất là đồng nghiệp và thuộc cấp. Ông tranh thủ đọc, nghiên cứu nhiều tài liệu nước ngoài và khoa học quân sự, chế tạo vũ khí rồi truyền cho cộng sự của mình trong quá trình thực hành. Mỗi tuần, ông đều dành thời gian để kèm cặp bốn cậu con trai học hành. Phương pháp học mà ông truyền cho con hết sức đơn giản: Không được học thuộc lòng mà phải biết tóm tắt lại kiến thức đã học, gạch đầu dòng những vấn đề chính để nhớ cho dễ dàng. Nói đến đây, bà Khánh nghẹn lời: “Thời gian ông dành cho gia đình không nhiều nhưng suốt thời gian chung sống với nhau, tôi chưa bao giờ giận ông. Ông ít nói nhưng sống giàu tình cảm. Ông là con người của công việc, lao động nghiêm túc. Hạnh phúc của ông là phụng sự đất nước. Đó cũng là hạnh phúc của gia đình”.
Cuối thập niên 1980, gia đình chuyển vào sinh sống ở TP Hồ Chí Minh. Bà Khánh cho biết: “Ông đã chọn căn nhà nhỏ này được xây dựng trước năm 1975. Ông bảo có ở bao nhiêu mà nhận nhà to, để Nhà nước cấp cho người khác. Trước nhà này lại có cây xoài trĩu quả nên ông thích lắm”. Gần 20 năm sinh sống ở miền Nam, ông vẫn đọc sách, nghiên cứu nhiều tài liệu quý và đóng góp nhiều ý kiến khoa học quan trọng cho thế hệ trẻ. Trong căn nhà hiện nay của gia đình, phòng làm việc của cố Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa vẫn bày trí y như lúc ông còn sống. Bà Khánh vẫn quét dọn hằng ngày và giữ thói quen ngủ trên căn phòng tầng hai, mặc dù đi lại vất vả. Bà nói về ông với niềm tự hào: “Ông đã hoàn thành sứ mệnh và về với Bác Hồ. Ông sống giản dị và có một thứ quan trọng hơn cả mọi danh hiệu: Đó là sự ghi nhận của nhân dân, đất nước, của lịch sử về những đóng góp của ông cho Tổ quốc”.
Có lẽ, nói về cố Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa, chúng ta không chỉ nhớ đến người Cục trưởng Cục Quân giới đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, một trong những người đặt nền móng cho nền công nghiệp quốc phòng non trẻ, một con người dám từ bỏ công việc với lương tháng 22 lượng vàng để theo Bác Hồ về nước phụng sự Tổ quốc, từ bỏ cuộc sống sung sướng nơi Pa-ri hoa lệ, chấp nhận khó khăn thiếu thốn nơi rừng sâu Việt Bắc để nghiên cứu chế tạo vũ khí góp phần đánh đuổi quân xâm lược Pháp. Hình ảnh của ông còn lắng đọng trong tâm trí mọi người là một con người nhân hậu, khiêm tốn, bình dị. Một nhà khoa học uyên thâm hay “lơ đễnh” nhưng luôn thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Bác Hồ, sống trọn nghĩa, vẹn tình.
Bài và ảnh: LÊ HÙNG KHOA