Ông Nguyễn Lương Cảnh

Suốt cuộc đời, ông Nguyễn Lương Cảnh-người khắc tên liệt sĩ và vẽ bản đồ Trường Sơn năm xưa-vẫn luôn trau dồi chữ “Tâm”, để khi không còn ở trong quân ngũ ông vẫn như được sống chan hòa giữa đồng đội.

Tháng 2-1965, chàng trai Nguyễn Lương Cảnh vừa tròn 18 tuổi tình nguyện tham gia vào lực lượng Thanh niên xung phong tỉnh Quảng Bình, vận tải hàng hoá, khôi phục cầu, đường… cho những đoàn quân tiến vào Nam. Chiến tranh khốc liệt, chứng kiến những người đồng đội của mình hy sinh, nằm lại nơi chiến trường không một tấm bia đá, không một dòng tên… trái tim anh như thắt lại. Ngày mở đường, tối khi mọi người đã yên giấc ngủ anh lại tỉ mẩn với một cái đục, cái búa, chiếc cờ-lê cùng những phiến đá nhặt nhạnh, lựa chọn khi làm nhiệm vụ, anh khắc tên từng đồng đội đã hy sinh rồi đặt tên cho từng nấm mộ. Đêm núi rừng Trường Sơn tĩnh lặng đến lạ thường, dường như tất cả mọi thứ âm thanh đều lùi vào rừng sâu thăm thẳm nhường chỗ cho tiếng khắc, tiếng đục và cả tiếng lòng anh thổn thức: “Dị ơi, Minh ơi, mình không tin các cậu đã hy sinh…”. Cứ thế, không biết bao nhiêu tấm bia đá là bao đêm trái tim và đôi tay khéo léo của anh thức cùng các liệt sĩ. Lần cuối cùng trước lúc chuyển đơn vị, anh khắc bia mộ cho một nữ chiến sĩ văn công bị trúng bom. Đôi bàn tay tài hoa lướt trên phiến đá mà trái tim anh như thắt lại khi còn thánh thót đâu đây giọng hát trong trẻo: “Ơi cô gái Trường Sơn, bao đêm em đi mở đường, cho tiền tuyến xe anh qua…”. Sau này, mỗi lần nghe bản nhạc quen thuộc đó, hình ảnh cô văn công và giọng hát ngọt ngào năm xưa lại hiện hữu, thôi thúc anh phải phấn đấu, cống hiến cho đất nước, cho người đã ngã xuống... Chiến tranh ngày càng khốc liệt, suốt dọc tuyến đường 20 Quyết Thắng những năm đó đã có tới 7 vùng quy tập các liệt sĩ và chính anh là người duy nhất khắc bia cho những người đã ngã xuống. Dưới ánh trăng khuya nơi rừng già, đôi bàn tay người lính Trường Sơn rắn chắc mà nhẹ nhàng khắc tên lên bia đá như sợ đánh thức giấc ngủ, như sợ chạm vào vết thương của đồng đội, như tỏ một lòng thành kính, tri ân… Sau này, khi đất nước hòa bình, nhiều thân nhân liệt sĩ đã tìm được hài cốt người thân đưa về cũng chính từ việc làm âm thầm lặng lẽ mà vô cùng ý nghĩa đó.

Nhận thấy tài năng và đặc biệt là trái tim vì đồng đội của Nguyễn Lương Cảnh, Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, Tư lệnh Đoàn 559 điều anh về vừa học tập nghiệp vụ vẽ bản đồ, vừa làm nhiệm vụ tại Phòng tác chiến, Bộ Tham mưu, Đoàn 559. Công việc của anh là vẽ, quản lý toàn bộ bản đồ đường Trường Sơn từ tháng 5-1967. Ở thời điểm bấy giờ, mỗi năm Đoàn 559 sử dụng mới từ 8 đến 10 tấm bản đồ. Điều đó đồng nghĩa với việc phải sưu tầm, nghiên cứu và học thuộc hàng trăm tấm bản đồ tương đương với hàng nghìn mã số. Cũng thời gian đó, mới khoảng 10 tuyến đường chính như: Đường 16, 20, 10, 12..., nhưng khi chiến tranh kết thúc, đến tháng 2-1976, toàn bộ hệ thống đường Trường Sơn có 216 con đường (chưa kể đường sông) dài hơn 20.000km. Công việc của người vẽ bản đồ thời đó vô cùng khó khăn và đòi hỏi phải tuyệt mật, không hề được tiếp xúc với ai ngoài chỉ huy, không được phép nói với ai về nghề nghiệp mình làm. “Từ đi thực tế đến những ngày về phép đều có người đi cùng”, ông Cảnh kể. Để vẽ được một cách chuẩn xác, phải thu thập, nghiên cứu thật nhiều tài liệu từ bản đồ thông thường, bản đồ của địch mình thu được và các đơn vị tại chỗ khảo sát gửi lên, trinh sát gửi về... Mỗi mảnh bản đồ ông vẽ nhanh nhất từ 2, 3 tuần, lâu cũng mất thời gian là 3, 4 tháng. Ông Cảnh nhớ lại: Đó là vào tháng 2-1969, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên bảo ông vẽ sơ đồ chi tiết từ vị trí đóng quân của cấp đại đội đến cấp sư đoàn với đầy đủ trận địa, kho tàng, tỷ lệ 1:500.000 để báo cáo với Bác Hồ và Bộ Tổng tư lệnh. Sau hơn 3 tháng miệt mài ông hoàn thành nhiệm vụ, nhưng khi đưa lên trình với Tư lệnh, sau một hồi xem xét, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên bảo: “Cậu về làm lại”. Sững sờ, có phần thắc mắc vì hầu như đã đầy đủ các chi tiết, chưa kịp hỏi lại thì Tư lệnh nói tiếp: “Vì sơ đồ quá chính xác, nếu rơi vào tay địch sẽ bất lợi cho cách mạng”. Ngày hôm sau, tấm bản đồ “quá chính xác” đó đã được chỉnh lại sai lệch mỗi vị trí đóng quân 10km và đến bây giờ vẫn còn được lưu giữ.

Năm 1984, rời quân ngũ, cựu chiến binh Nguyễn Lương Cảnh trở về quê hương Đồng Hới - Quảng Bình lập nghiệp. Năm 2001, ông thành lập Công ty TNHH Hải Quân, chuyên kinh doanh nhôm kính, đồ gỗ mỹ nghệ, dịch vụ vận tải... Đặc biệt, công ty không những tuyển dụng con em các cựu chiến binh, gia đình chính sách trên địa bàn mà còn mở lớp dạy nghề miễn phí cho hàng trăm con em thương binh, trẻ em nghèo, mồ côi, tạo công ăn việc làm cho hàng chục lao động. Không chỉ làm giàu cho chính mình, cho đất nước, Công ty còn thường xuyên đóng góp vào các quỹ từ thiện mỗi năm 50 triệu đồng.

Người ta vẫn bảo, cuộc đời như một tấm gương, nếu bạn mỉm cười thì người trong gương cũng cười lại với bạn và tôi chợt nghĩ, dường như câu nói đó đã dành cho cựu chiến binh Nguyễn Lương Cảnh, một con người sống trọn vẹn nghĩa tình đồng đội, cống hiến tài năng cho đất nước trong chiến tranh cũng như ngày hôm nay.

PHAN THÚY NGA