QĐND - Thấy khách bước vào, tất cả đều đứng dậy vòng tay “Chúng cháu chào bác ạ”. Một cô bé nhanh nhẹn kéo ghế, lễ phép: “Mời bác ngồi chơi ạ”. Một bé khác hai tay bê chén nước nhanh nhảu mời khách… Hình ảnh thân thương ấy không phải ở một lớp học bình thường, mà là ở một lớp học đặc biệt. Nói đặc biệt, bởi cả thầy và trò đều là những người thiệt thòi; người thì tấm thân không nguyên vẹn, người thì bị thiểu năng trí tuệ. Phụ trách lớp và là người truyền cho các em ngọn lửa đam mê chính là thầy giáo tật nguyền Trương Tấn Dũng…
Tuổi thơ nghiệt ngã
“Em quê gốc ở Đại Lộc (Quảng Nam). Anh hỏi ở xã nào thì em cũng không biết nữa. Hình ảnh quê nội chỉ còn láng máng trong em, tuổi thơ của em chỉ một, đôi lần được ba mẹ đưa về thăm quê, từ 3 tuổi trở đi cuộc đời em gắn liền với chiếc xe lăn…”, Dũng nhỏ nhẹ nói với tôi như vậy.
Không biết có phải bị di chứng chất độc da cam từ người cha hay không, nhưng khi lên 3 tuổi, trải qua một trận sốt, tứ chi em bị bại liệt hoàn toàn. Nhờ sự trợ giúp từ y tế và người thân, dần dần tay trái của em cũng cử động được và bàn tay 5 ngón may mắn còn 4 ngón không bị co quắp. Lớn lên trong sự tột cùng đau khổ của người thân, Trương Tấn Dũng chỉ cảm nhận được thiệt thòi của mình khi đến tuổi đi học mà không được đến trường; cảm nhận được sự vất vả của người mẹ qua những buổi tất tả làm đồng, chạy chợ. Có lẽ vì quá vất vả và cả sự đau buồn, người mẹ xấu số của em đã trút hơi thở cuối cùng khi em vừa lên 10 tuổi. Rồi một ngày, ba em cũng lẳng lặng bỏ đi, lúc đó em cũng không biết ba mình đi đâu, chỉ thấy lâu lắm không thấy ông trở về. Hai anh em Dũng (Dũng và người em trai Trương Công Hoàng) lớn lên trong sự cưu mang, đùm bọc của bà ngoại.
Một hôm thấy em trai được cắp sách đến trường, Dũng ngây thơ hỏi mẹ và bà ngoại sao mình không được đi học. Cả bà ngoại và mẹ em đều bật khóc. Ôm đứa con tật nguyền vào lòng, nước mắt mẹ chảy dài trên khuôn mặt sạm nắng. Và từ đó em bắt đầu hiểu được sự thiệt thòi của mình. Lân la đến bàn học của chú em, tay giở những tập sách, Dũng như lạc vào một thế giới với nhiều điều mới lạ từ những hình ảnh và con chữ trên trang giấy. Rồi từ đó, tối nào Dũng cũng đến ngồi cạnh bàn học của chú em, giọng ê a học bài của em trai như thấm vào Dũng. Em đòi mẹ sắm cho cây bút, tập sách và tấm bảng đen. Nhìn con đánh vật với cây bút và trang giấy, mồ hôi chảy đầm đìa trên khuôn mặt non nớt, mẹ em nhiều lần lén giơ tay lau mắt. Mỗi khi viết được một chữ, dù chưa được ngay ngắn, tròn trĩnh, khuôn mặt như giãn ra. Cứ như vậy, với cả năm trời tự học từ những tập sách của em trai, Dũng đã đọc thông viết thạo. Thương con, thương cháu, cả bà ngoại và mẹ em, tối tối thay nhau cõng em đến lớp bổ túc văn hóa “xóa mù” trong thôn. Rồi mẹ đổ bệnh và từ giã cõi đời, bà ngoại và các cậu của Dũng thay nhau cõng đứa cháu tật nguyền đến lớp. Học hết chương trình tiểu học ở lớp bổ túc văn hóa xóa mù, em dự thi vào THCS và đậu vào Trường THCS Trần Quý Cáp (Đà Nẵng). Thương bà ngoại tuổi già vất vả, Dũng quyết tâm một mình đến lớp bằng chiếc xe lăn. Hàng xóm cảm phục trước nghị lực của cậu học trò tàn tật, ngày mưa cũng như ngày nắng một mình miệt mài đến lớp bằng chiếc xe lăn; đấy cũng chính là tấm gương cho con trẻ trong xóm học tập và noi theo.
 |
Thầy Dũng bên máy vi tính. |
Tốt nghiệp THCS, cũng là lúc em phải từ bỏ giấc mơ học tiếp của mình vì hoàn cảnh gia đình quá khó khăn. Bước ngoặt cuộc đời em bước sang trang mới với một nghị lực phi thường…
Vượt lên số phận
Khi đã có chút “vốn liếng” chữ nghĩa trong đầu, Dũng bắt đầu nghĩ đến phải làm được việc gì đó để đỡ đần cho bà ngoại. Sau nhiều đêm suy nghĩ, nhiều ngày trên chiếc xe lăn, Dũng đến hầu hết các cơ sở dạy tin học ở Đà Nẵng để tìm hiểu…
Một buổi tối Dũng thỏ thẻ nói với bà ngoại cho em được đi bán vé số. Ngoại lặng đi, nước mắt chảy dài trên khuôn mặt nhăn nheo, dù rất cương quyết và thương cháu, nhưng cuối cùng cũng đành nuốt nước mắt vào trong đồng ý để cho Dũng thực hiện ý nguyện của mình. Tối tối, nhận những đồng tiền lẻ nhàu nát từ tay đứa cháu tội nghiệp, bà ngoại em vuốt lại phẳng phiu và mua con lợn đất dành dụm những đồng tiền nhỏ nhoi ấy gọi là để “làm vốn” cho cháu.
Sau mấy tháng trời dầm mưa, dãi nắng trên chiếc xe lăn len lỏi trên những tuyến đường ầm ào xe cộ, những khu dân cư, bệnh viện, trường học, hàng quán… rồi đến một ngày, Dũng quyết định xin bà ngoại “mổ thịt” con heo đất từ sự ngỡ ngàng của cả nhà. Dũng ngồi đếm đi, đếm lại những đồng tiền tiết kiệm, rồi lấy bút tính tính, toán toán và nụ cười bừng nở trên môi. Lúc ấy mọi người trong nhà đều không cầm được nước mắt khi biết được ý định của Dũng những ngày đi bán vé số vừa qua là để lấy tiền trả học phí cho khóa học tin học, mà trước đó Dũng đã đi tham khảo ở các cơ sở đào tạo tin học... 3 tháng học tin học ở cơ sở đào tạo Việt Tin, thế giới của công nghệ thông tin như một chân trời rộng lớn mở trước mặt cậu bé tật nguyền ham học hỏi. Từ thế giới ấy em đã học được nhiều điều mới mẻ. Khi tốt nghiệp loại giỏi ra trường, Dũng được giới thiệu đến một số tiệm ảnh lớn ở trung tâm thành phố Đà Nẵng; nhưng vì tấm thân, có tứ chi, thì đã tật nguyền mất hơn ba, đi làm bằng xe lắc, đến tiệm lại phải chuyển sang xe lăn, vì vậy mà em không xin được việc làm.
Không nản, em về lại quê Hòa Châu (Hòa Vang). Vẫn trên chiếc xe lăn, Dũng lại đi làm gia sư dạy kèm tin học cho các em học sinh tiểu học mà gia đình có điều kiện. Dũng nói với tôi, lúc đầu hầu hết các gia đình không thể tin là em có kiến thức về tin học, phải thuyết phục mãi, thậm chí xin dạy không công, cứ vậy dần dà tiếng “thầy Dũng mát tay”, không chỉ dạy cho các em nhỏ hiểu biết thêm về công nghệ thông tin, mà chính sự lao động cần mẫn của em đã cảm hóa nhiều chú bé “cứng đầu” ham chơi hơn ham học, trở nên ngoan ngoãn. Thu nhập nhỏ nhoi từ việc làm chính đáng của mình không chỉ giúp đỡ một phần cho bà ngoại, mà còn tích lũy được chút ít vốn liếng để em sắm cây cọ, hộp màu và giá vẽ để thỏa ước mơ tự tay mình vẽ lên những bức tranh quê mà em hằng ấp ủ. Xem tranh của Dũng tôi thật bất ngờ. Em không được học bất cứ một trường lớp nào về hội họa, vậy mà tranh của em từ phối màu, đến nội dung đều toát lên sự dung dị, mộc mạc như chính dòng sông, chính đồng lúa vàng của quê em… Tranh em vẽ ra khá nhiều. Chẳng lẽ vẽ ra rồi để đấy! Nghĩ vậy, Dũng quyết định xếp toàn bộ số tranh đã vẽ, lại lọc cọc trên chiếc xe lăn đến các điểm du lịch. Nhiều khách ngoại quốc không tin cậu bé tật nguyền lại vẽ được bức tranh có hồn như vậy. Để cho khách tin, em đặt giá vẽ tại chỗ. Các chú bảo vệ ở các khu du lịch lúc đầu còn xua đuổi, nhưng khi nghe em trình bày đã xếp cho em một vị trí để em hành nghề…
 |
Thầy Dũng với các học trò của mình. |
Và như một cơ duyên, trong một buổi bán tranh tại Cổ Viện Chàm Đà Nẵng, Dũng gặp cô Nguyễn Thị Hiền - Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam thành phố Đà Nẵng. Cảm phục trước chàng trai tật nguyền giàu nghị lực và tài hoa, cô Hiền đã nhận Dũng về dạy các em bị nhiễm chất độc da cam/đi-ô-xin, thuộc cơ sở 2 Trung tâm Bảo trợ nạn nhân chất độc da cam thành phố Đà Nẵng.
Thương người như thể thương thân
Dũng kể: “Những ngày đầu đến lớp, em đều phải dậy từ rất sớm, vì từ nhà đến lớp trên chiếc xe lăn phải mất hơn hai giờ đồng hồ. Mất mấy tháng trời như vậy, rồi một ngày có đoàn các nhà hảo tâm đến thăm lớp, hiểu hoàn cảnh của em, họ đã tặng em chiếc xe đạp điện 3 bánh, nhờ vậy mà em đỡ vất vả hơn trong việc đi lại…”.
Hôm tôi đến thăm lớp, thấy tất cả các cháu miệt mài viết, miệt mài vẽ. Những khuôn mặt vô tư càng như vô tư trong trẻo hơn khi hoàn thành một chữ viết, một nét vẽ. Cô giáo Hoàng Kim Uyên, cũng là nạn nhân chất độc da cam, thứ chất độc ma quái làm biến dạng khuôn mặt cô gái 22 tuổi-độ tuổi cháy bỏng những ước mơ-nói với tôi: “Lớp học có 35 học sinh, phụ trách lớp là thầy Trương Tấn Dũng, ngoài ra còn có 3 cô giáo nữa. Dạy các em vất vả lắm. Lúc bình thường thì các em rất chịu khó, chăm ngoan, nhưng lúc đổ bệnh, em thì nằm lăn ra nhà, em thì chân tay cứng nhắc, vừa cười, vừa khóc, em thì bỏ chạy khỏi lớp… Lúc đầu chúng cháu hoảng lắm, không biết làm thế nào để các em trở lại trạng thái bình thường. Từ ngày thầy Dũng về với lớp, thầy nghĩ ra nhiều cách để khơi dậy lòng tự tin và sự đam mê của các em. Bây giờ thì chú thấy đấy, chỉ có em nào bị đau ốm mới phải nghỉ học, còn lại đều đòi ba mẹ đưa đến lớp và đến lớp là chăm chỉ học tập…”.
Tôi hỏi, thầy Dũng có sáng kiến gì mà những học trò đặc biệt này lại ham học, chăm ngoan đến như vậy? Vẫn giọng nhỏ nhẹ, Dũng cho biết: “Hoàn cảnh các em cũng như mình. Gia đình đưa các em đến đây là tin tưởng, gửi gắm lớp vừa quản lý, vừa dạy bảo các em. Em suy nghĩ, lớp phải có trách nhiệm dạy cho mỗi em lấy một cái nghề. Từ suy nghĩ ấy, em quyết định phải khơi dậy trong các em lòng say mê, tìm trong sự thiệt thòi của các em những năng khiếu bẩm sinh, để từ đó dạy cho các em những gì mình biết…”. Tay chỉ máy vi tính, chỉ vào những bức tranh, bức thư pháp… Dũng nói: “Đây đều là những bản mẫu, em nào thích vẽ em dạy vẽ; em nào thích vi tính, em dạy tin học; em nào thích viết thư pháp, em dạy viết thư pháp. Riêng thư pháp, em tự mày mò học cách đây hơn một tháng…”. Tôi hỏi: “Sao Dũng nhiều nghề vậy?”. Dũng cười và sôi nổi: “Cũng từ nhu cầu học tập của các em cả thôi chú ạ, mình phải cố tạo ra nhiều nghề. Có nhiều nghề, sẽ tạo ra được nhiều niềm đam mê cho các em”.
Với tấm thân chỉ duy nhất còn 4 ngón ở bàn tay trái là lành lặn và cử động được, vậy mà chàng trai tật nguyền Trương Tấn Dũng 28 tuổi đã vượt lên số phận, trở thành người thầy đặc biệt, truyền lửa đam mê, truyền nghề cho các em nhỏ cùng số phận với mình. Nhìn những em nhỏ mải mê với cây cọ, mải mê với màn hình vi tính… trong tôi bùng lên một niềm tin mãnh liệt. Rồi mai đây, những mảnh đời bất hạnh này dưới sự “truyền lửa” của thầy giáo Dũng, các em sẽ vượt qua số phận của mình vươn lên trong cuộc sống như người thầy đáng kính của mình.
Bài và ảnh: Đặng Trung Hội