QĐND - Đã mấy lần tôi lên Tân Trạch nhưng giữa đường phải bỏ cuộc vì Đường 20 quá xấu, nhất là khi mới mưa xong, đi bộ cũng khó. Hôm nay trở lại “tuyến đường máu lửa”, phải mất gần một ngày xe mới bò qua hơn 50 cây số đường rừng hiểm trở. Bản A Rem đã hiện ra rất đẹp trong thung lũng xanh. Nơi đây có người Bí thư chi bộ nhiều năm liền “cắm bản”, hết lòng vì dân, được bà con trìu mến gọi là “Người của Đảng”.

Tân Trạch thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, là một xã miền núi rẻo cao, nằm biệt lập giữa vùng lõi của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng. Đây là một xã đặc biệt khó khăn, từng sở hữu nhiều “không”. Ấy là không điện, không đường, không trường, không trạm và không chợ. Cách nay gần 8 năm, khi anh Phan Thanh Bình chưa được cử lên làm Bí thư chi bộ, Tân Trạch chỉ là một bản heo hút và lạc hậu giữa đại ngàn Trường Sơn. Bây giờ thì đã khác nhiều, bản làng thay da đổi thịt, đẹp màu ngói đỏ giữa rừng xanh.

Tháng 6-2003, đang làm chuyên viên Ban tổ chức Huyện ủy Bố Trạch, Phan Thanh Bình được lệnh lên Tân Trạch làm Bí thư chi bộ. Dẫu biết rằng đây là một địa bàn khó khăn, nhưng anh không ngờ xã lại khó khăn và lạc hậu đến mức ấy. Lúc bấy giờ, cả xã chỉ có một bản, với 36 nóc nhà và 182 nhân khẩu. Đồng bào chủ yếu là tộc người A-Rem, nửa du canh du cư, nửa còn ở trong hang với người Rục. Bà con chủ yếu sống bằng săn bắn, đào củ, làm rẫy ăn qua ngày và trông chờ vào trợ cấp của Nhà nước. Mới chân ướt chân ráo lên, nhìn từ đầu đến cuối bản, cỏ mọc lút đầu người, cỏ leo đến chân nhà sàn, gia súc thả rông, phân bò, phân heo dày đặc lối đi, anh thở dài… Dạo quanh vài nhà, thấy lũ trẻ mặt mũi nhem nhuốc, không có quần áo, đứa lớn cõng đứa bé đang nhai củ sắn sống thay cơm, anh chạnh lòng.

Phải làm gì và bắt đầu từ đâu? Phan Thanh Bình suy nghĩ trắng đêm. Cả xã có một chi bộ, và chi bộ ấy cũng chỉ có… bốn người. Hai người trong bản quá ít, huyện điều thêm hai thầy giáo ở Trường nội trú Thượng Trạch bổ sung, thêm anh nữa là năm đồng chí. Phải bắt đầu từ sức mạnh của đảng viên và đội ngũ cốt cán! Nhưng các tổ chức quần chúng như Đoàn thanh niên, phụ nữ… hầu như chưa có, các hội khác đã có nhưng quá yếu. Dù vậy, anh vẫn triệu tập họp, củng cố và kiện toàn lại tổ chức. Công việc đầu tiên là tổng vệ sinh toàn bộ. Anh bàn với trưởng bản, già làng, huy động mọi người tập trung dọn dẹp đường sá, phát quang bờ bụi. Được sự phối hợp của Đồn 593, sau ba ngày lao động, bản A Rem đã sạch sẽ hơn.

Phan Thanh Bình hướng dẫn bà con chăm sóc cây trồng.

 

Kế đến là việc rào bản và làm chuồng bò, heo. Anh tổ chức vào rừng chặt nứa rào xung quanh bản và nhà ở, không cho trâu bò đi lung tung. Thấy bà con chần chừ, anh tổ chức cho đảng viên vào rừng chặt nứa, chặt dây mây về làm trước. Do chặt nứa không quen nên anh bị đứt tay, bà con thương lắm, mọi người rủ nhau đi làm, vài ngày đã rào xong. Làm chuồng trại chắc chắn nhưng dân bản không biết lùa gia súc vào! Trâu bò thả rông quen sống hoang dã, muốn vào chuồng cũng phải… huấn luyện từ từ. Heo cũng vậy, phải mất cả tuần chúng mới quen cái nếp gõ mõ cho ăn mới chịu vào. Nghe bà con bảo, trâu, bò muốn vào chuồng phải lùa ban đêm, thế là Bình cùng anh em thay nhau trực đêm này qua đêm khác, đốc thúc mọi nhà dẫn bò vào chuồng. Cán bộ Bình cứ bày cho mọi người từ việc nhỏ đến việc lớn, nhắc đi nhắc lại nhiều lần kẻo họ quên, nói đi đôi với làm, bà con từ chỗ chưa tin, thấy cán bộ nói hay, làm có kết quả, dần dần tin và làm theo. Ông Đinh Đu phụ trách nông dân của xã, tuy lớn tuổi nhưng việc gì cũng hỏi “bác Bình”. Ông giải thích: “Nó nhỏ tuổi hơn miềng nhưng miềng quý nó vì làm hay, chịu gian khổ lên đây, việc gì cũng vì bà con của bản miềng”. Vậy là từ trẻ đến già, ai cũng gọi anh bằng “bác”.

Mùa đông đến, cái rét miền rẻo cao lạnh thấu xương, nhiều đêm Phan Thanh Bình trằn trọc không ngủ, thương một bộ phận bà con đang ở trong hang đá lạnh lẽo, áo quần không có, thức ăn thiếu thốn. Anh bàn với đồng chí Long cán bộ Biên phòng, vận động bà con rời hang đá về định cư. Nhiều lần tìm được hang nhưng bà con bỏ trốn, đi miết lần này đến lần khác. Tìm được rồi, nói một lần, hai lần bà con chưa nghe. Anh ở lại trong hang đá, tìm cách thuyết phục ông Đinh Mo, người già nhất rời hang trước. Sau nhiều lần kiên trì phân tích, ông Đinh Mo quyết định rời hang, thế là hơn chục hộ dân lần lượt đi theo anh về bản. Bây giờ thì xã đã có 64 hộ với 294 khẩu, sống sum vầy trên bản A Rem. Nếu nghe kể lại những ngày các anh lần mò từng hang để vận động, chắc nhiều người ngạc nhiên lắm. Một nơi cách  TP Đồng Hới non trăm cây số, vẫn có tộc người sống gần như nguyên thủy!

Để giúp bà con biết cách làm ăn và sinh hoạt thoát khỏi lạc hậu, đói nghèo, Phan Thanh Bình tự nhủ phải học tiếng A Rem. Trong việc “bốn cùng” thì “cùng học tiếng dân tộc” quả là không đơn giản. Tiếng A Rem nghe như chim hót, Bình vừa nhờ già làng bày vẽ, vừa nhờ bộ đội Long giúp. Ban ngày làm việc, ban đêm thắp đèn dầu đánh vần, chưa đầy một tháng anh đã nói chuyện tương đối thạo với bà con. Nhưng nan giải nhất vẫn là việc xóa mù chữ cho các lứa tuổi. Bây giờ trường học đã có 75 em nhưng khi anh mới lên, trường chỉ có một lớp, lèo tèo vài em rồi bỏ học, cô giáo cũng chán nản về xuôi. Đội ngũ cán bộ cốt cán trong bản cũng không được mấy chữ, lâu ngày học đã quên. Anh lại đi vận động từng nhà, không kể lứa tuổi, đến trường để học chữ Bác Hồ. Ngày đầu tiên học lại, chỉ hơn chục người lớn và trẻ con, ai cũng ngậm điếu thuốc rê to đùng, khói um cả lớp làm thầy giáo ho sặc sụa. Phan Thanh Bình vừa vận động bà con đến trường đông hơn, vừa nhắc nhở mọi người không hút thuốc trong giờ học. Việc làm đó không phải dễ, khi những thói quen và hủ tục đã ăn sâu, bám rễ trong tiềm thức của tộc người A Rem.

Cái hủ tục ấy ảnh hưởng rất lớn trong suốt thời gian Phan Thanh Bình làm Bí thư chi bộ. Nạn mê tín dị đoan, đau ốm phải cúng thầy mo, nạn tảo hôn, đẻ dày, đẻ nhiều, nạn rượu chè bê tha, uống say nằm vật vờ bất cứ chỗ nào. Rồi còn thói quen ỷ lại, không chịu khó lao động, trông chờ vào trợ cấp của Nhà nước.v.v.. Khi mới lên làm, Phan Thanh Bình gặp nhiều khó khăn tưởng không thể vượt qua. Anh đã nhiều lần cùng đội ngũ cốt cán vừa phát gạo cứu đói, vừa nhắc nhở bà con “Đừng đổi gạo lấy rượu”, vậy nhưng mới phát xong đã thấy mấy gia đình mẹ con ăn sắn trừ bữa, còn gạo “bố nó đã mang đi đổi rượu hết rồi !”. Trạm y tế cũng vậy, chỉ có nhà chứ không có cán bộ y tế nào, thỉnh thoảng mới có một y sĩ từ Thượng Trạch  ghé qua vài buổi khám bệnh. Bình lại đến từng nhà hướng dẫn bà con ăn ở hợp vệ sinh, phòng, chống dịch bệnh. Trong lúc khó khăn nhiều bề, nhất là thiếu cơ sở hạ tầng, thì một tin vui đến với xã Tân Trạch: Đảng bộ và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định xây tặng cho xã 42 căn nhà tình nghĩa!

Năm 2004, công trình tình nghĩa xây xong, bà con A Rem dọn về nơi ở mới. Con đường về bản được bê tông hóa, làm cho làng bản khang trang. Trường học và trạm y tế đã được đầu tư xây dựng, chỉ có điện là phải dùng năng lượng mặt trời, nắng thì có, mưa không. Cán bộ Bình vẫn day dứt, bởi bà con còn nghèo lắm, đói lắm. Không có đất trồng lúa nên bữa ăn chủ yếu là ngô và sắn, thi thoảng mới có hạt cơm nhờ gạo cứu trợ. Phải tổ chức cho mọi người biết lao động, biết thoát nghèo với tài nguyên rừng, giúp họ có “cần câu”. Anh liên hệ với bên lâm nghiệp, cho bà con nhận chăm sóc bảo vệ 1000 héc-ta rừng, đồng thời nhận giống cây huê (gỗ sưa) về trồng. Hiện nay rừng gỗ sưa rộng 7 héc-ta đã lên xanh khép tán, sẽ cho thu nhập cao trong tương lai gần. Mới đây, anh lại mời cán bộ khuyến nông lên dạy bà con cách làm chổi đót, một việc nhẹ nhàng, nguyên liệu sẵn, thu nhập cao.

Hôm chúng tôi lên thăm Tân Trạch, cảm nhận không bao giờ quên là Đường 20 quá xấu. Anh lái xe nói nửa đùa nửa thật: Đây có lẽ là con đường xấu nhất toàn quốc! Ngày xưa, Đường 20 Quyết Thắng là tuyến đường oanh liệt nhất, hứng chịu hàng ngàn tấn bom đạn của kẻ thù. Chiến tranh đã qua gần 40 năm mà con đường thì vẫn vậy, đầy những ổ gà ổ voi, lắm đèo dốc bên vực sâu thăm thẳm. Cứ vài tháng anh Bình lại về xuôi trên con đường khổ ải này, có khi xe hỏng hoặc gặp mưa, ngủ lại hang đá, nhịn đói là chuyện thường. Khi về huyện công tác, anh kết hợp thăm vợ con và nhận “tiếp tế thực phẩm” từ người vợ đảm. Chị Lê Thị Thảo, một phụ nữ hiền thục, vừa gánh vác việc gia đình trong suốt hơn 7 năm anh “cắm bản”, vừa lo cho anh từng tý nhu yếu phẩm khi trở về rừng. Chiếc ba lô lên đường bao giờ cũng căng, nào mì chính, bột canh, xà phòng, đường sữa, cá khô… Nhưng khi lên đến đầu bản, anh đã phân phát cho bà con, ưu tiên những người già, người ốm. Đồng bào A Rem từ lâu đã quý mến và xem anh như đứa con của bản.

Bảy năm trời đảng viên Phan Thanh Bình xây dựng phong trào, chi bộ xã từ 4 đồng chí nay đã phát triển lên 28 đồng chí, các đoàn thể được củng cố và phát triển. Bà con đã biết định canh, không phá rừng làm rẫy, không săn bắt thú rừng, số hộ nghèo đói giảm dần, đời sống vật chất và tinh thần khá lên trông thấy. Hôm anh chuẩn bị chia tay Tân Trạch để về nhận nhiệm vụ mới ở Hội Nông dân huyện, bà con A Rem nghỉ lên rẫy, họ tập trung ở sân Ủy ban để tiễn anh, từ trẻ đến già đều lưu luyến. Già làng không giấu nổi xúc động, nói với mọi người :

- Khi không có chi ăn thì nó ở đây, cùng ăn sắn khoai chịu khổ với bà con, bây giờ có gạo rồi thì nó về xuôi. Cái dáng cao gầy của nó làm tao nhớ quá mất thôi!

Dân bản làm một con heo, bày rượu cần liên hoan chia tay người đảng viên nhiều năm gắn bó, làm cho Tân Trạch đổi thay trông thấy. Cụ Y Bo hơn 80 tuổi, nói với con cháu như nói với lòng mình:

- Cán bộ Bình lên giúp đồng bào được nhiều lắm. Nhờ nó mà bà con biết trồng cây, nuôi con bò con heo mau lớn, ăn ở vệ sinh, con cái biết cái chữ. Nó về rồi, bà con và dân bản khóc nhiều lắm đó!

Về huyện nhưng phụ trách 6 xã miền núi, tháng nào anh cũng lên A Rem. Ở đó là quê hương thứ hai của anh, rất nhiều kỷ niệm và cũng là nơi tôi luyện phẩm chất của người đảng viên hết lòng vì bà con dân bản.

Bài và ảnh:   Xuân Vui