Trung tướng Cao Văn Khánh (1917-1980), nguyên Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, từng đảm nhiệm Phó tư lệnh chiến dịch Đường 9-Nam Lào. Nhân dịp kỷ niệm 40 năm chiến thắng của chiến dịch lịch sử này, Nguyệt san SK&NC xin giới thiệu bài viết của Giáo sư Tương Lai về ông, một trí thức trong Quân đội nhân dân Việt Nam (trước khi gia nhập Quân đội, Trung tướng Cao Văn Khánh là cử nhân toán học và cử nhân luật học).

Một trí thức và là một vị tướng, hai nét đặc trưng ấy hòa quyện trong một người, anh tôi, Cao Văn Khánh. Hoặc đúng hơn, nhân cách trí thức đã làm nổi bật hình ảnh và sự nghiệp của anh. Và hôm nay tôi muốn nói lên tình cảm sâu nặng, sự ngưỡng mộ và lòng biết ơn đối với anh, người bạn đời của chị Ngọc Toản, người chị đã chăm sóc tôi với tình thương của người mẹ kính yêu.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thiếu tướng Cao Văn Khánh (sau này là Trung tướng) và Đại tá Lê Hữu Đức (sau này là Trung tướng), Cục trưởng Cục tác chiến tại Tổng hành dinh trong Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975. Ảnh tư liệu

Gần đây, trong sự cởi mở của thời cuộc xua bớt đi lớp sương mờ ảo và u ám của những định kiến, người ta đã bắt đầu nói nhiều hơn về những vị tướng xuất thân là trí thức, chứ không chỉ những người từ bần cố, từ thợ thuyền mà trưởng thành lên, cho dù họ có tài thao lược đến đâu và sự cống hiến của họ cho Tổ quốc, vai trò của họ trong quân ngũ đáng trân trọng thế nào. Đương nhiên, không có đội quân công nông ấy, không có sự dũng cảm và hy sinh vô bờ bến của người nông dân, không thể có ngày hôm nay và hiển nhiên cũng không có sự cống hiến, tài thao lược của những người chỉ huy xuất thân là trí thức kia.

Là chủ lực quân của cách mạng, người nông dân kế tiếp truyền thống bao đời dựng nước và giữ nước trong suốt chiều dài lịch sử, luôn là người gánh trên vai mình gánh nặng nhất. Và lịch sử đã chứng minh, ai khởi động được ý chí và quy tụ được sức mạnh nông dân dưới ngọn cờ cứu nước của mình, người ấy sẽ lập nên sự nghiệp, sử sách ghi tên họ.

Chỉ có điều, nếu chỉ thấy nông dân mà không thấy người tập hợp và chỉ huy họ, thấy lính mà không thấy tướng, là tự lấy tay che mắt mình. Nếu tỉnh táo mà nhìn, thì lớp cán bộ quân sự cao cấp giữ vai trò nòng cốt trong đội quân công nông của Đảng, phần lớn xuất thân từ trí thức, kể từ ngày thành lập với người anh cả của quân đội, vị lão tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp. May mắn thay, màu xám định kiến sai lầm, hệ lụy của một thời đang được cuộc sống dần dần hàn gắn lại. Có lẽ người ta đã hiểu ra phần nào lời cảnh báo của Mác-xim Goóc-ki từng đưa ra từ những năm 1917-1918, năm của Cách mạng Tháng Mười Nga: “Cách mạng đã đánh đổ nền quân chủ, điều đó đúng! Nhưng điều đó có lẽ cũng có nghĩa rằng cuộc cách mạng đã mang chứng bệnh ngoài da vào bên trong nội tạng. Người ta không được phép tin rằng cách mạng đã chữa trị và làm phong phú cho nước Nga về mặt tinh thần...”. Và vì thế, nhà đại văn hào Xô viết ấy đã quyết liệt mà rằng: “Đối với tôi, lời kêu gọi Tổ quốc lâm nguy cũng không đáng sợ hơn lời kêu gọi “Hỡi các công dân! Văn hóa bị lâm nguy!”.

Dẫn ra hơi dài những lập luận trên chỉ để nhằm làm sống lại bối cảnh mà người thanh niên, hướng đạo sinh Cao Văn Khánh chọn con đường của mình. Hữu Ngọc đã kể về Cao Văn Khánh: “Trước 1945, mình không tham gia chính trị vì còn phải ở lại Huế săn sóc mẹ già. Đảng thành công, mình chưa muốn vào vì chưa có đóng góp gì... Mình chỉ muốn là người công dân tốt. Tổ quốc cần, đi đánh giặc. Xong, lại về dạy học”. Chúng tôi biết, có người cùng thế hệ “xếp bút nghiên” với Cao Văn Khánh đã nhận xét anh cư xử như vậy là “chậm”, ý nói “chậm giác ngộ” để nhanh chóng xin vào Đảng khi đã gánh vác trọng trách của quân đội. Một cách nghĩ khác: Đây lại là biểu hiện rất điển hình của một phẩm tính trí thức: Lòng tự trọng.

Theo chị chúng tôi kể thì đã có lần anh tâm sự: “Nếu vào Đảng thì đã vào từ dạo anh Đào Duy Kỳ đưa tài liệu về Đảng và muốn mình tham gia những năm 34, 35. Nhưng lúc ấy mình chưa thấy thật rõ lý do phải vào Đảng, khi mình đang là một trí thức tự do, yêu nước và hoạt động theo cách của mình mà tự mình thấy là đúng đắn như công việc dạy học của mình lúc đó, hơn nữa chưa thể bay nhảy vì còn phải chăm sóc, phụng dưỡng mẹ”. Có thể, từ một cách nhìn nào đó, thái độ ấy bị phê phán. Sự phê phán ấy, không phải là không có lý nếu từ một cách nhìn, cách nghĩ quen thuộc. Thế nhưng, đừng quên rằng, trong hoạt động “Thanh niên tiền tuyến” ở Huế, Cao Văn Khánh lại thuộc về những người “nam tiến” đầu tiên, người thầy giáo ấy dấn thân vào lửa đạn của cuộc chiến đấu, rồi từ đó luôn có mặt ở những chiến trường ác liệt nhất khi chưa phải là đảng viên cũng như khi đã gia nhập Đảng.

Ai đó đã nói rất hay về phẩm tính trí thức “phải là con người có sự đoan chính về nhận thức... chỉ những con người tự do trong đức tin của mình, những con người không bị lệ thuộc bởi các ràng buộc kinh tế, đảng phái, quyền chính, không phải tuân phục các khế ước tư tưởng, mới thuộc về giới trí thức... Nguyên tắc cơ bản của phẩm tính trí thức là tự do trí tuệ – tự do trong tư cách một phạm trù đạo đức. Con người trí thức chỉ không tự do với lương tâm và với tư duy của mình”.

Phải chăng sự “đoan chính về nhận thức” và “chỉ không tự do với lương tâm” của Cao Văn Khánh lúc ấy chính là bổn phận của người con đối với mẹ già, là giữ chữ hiếu? Có lẽ chàng thanh niên trí thức ấy không quá câu nệ như Từ Thứ, một nhân vật trong truyện “Tam Quốc”, phải “quy Tào” vì vướng bận mẹ già, không theo về được với Khổng Minh để phò minh chúa. Nhưng đúng là bổn phận của người con phải giữ tròn chữ hiếu đã khiến người trí thức Cao Văn Khánh chọn việc dạy học ở một trường tư thục tại Huế. Nhưng chắc chắn rằng, trong phẩm tính “đoan chính về nhận thức” của người trí thức ấy, “chữ hiếu” chiếm lĩnh một góc sâu thẳm trong đời sống tinh thần của anh. Những ứng xử của anh đối với gia đình mà chúng tôi được chứng kiến sau này, cho thấy rõ điều đó. Chị của chúng tôi từng tâm sự, tình cảm của anh dành cho mẹ chúng tôi, sự ân cần, chu đáo và tế nhị của anh mỗi khi từ chiến trường về hay trong thư gửi cho chị, bao giờ cũng có những dòng đằm thắm về mẹ chúng tôi đã làm bền chặt thêm tình yêu của chị dành cho anh. Cũng vì thế, tình thương yêu của mẹ chúng tôi đối với anh cũng là một nguồn động viên không nhỏ trong anh.

Phẩm tính trí thức, bản lĩnh, tầm vóc và sự nghiệp của vị tướng được khẳng định trong một con người: Cao Văn Khánh. Được vậy, chính là do anh đã tạo dựng được nhân cách của mình trên cái nền tảng nhân bản đó, trên cái bề dày văn hóa đó. Không có cái nền nhân bản ấy, không tự định hình và phát triển phẩm chất và tài năng của mình trên mảnh đất văn hóa cơ bản ấy, không thể có một nhân cách, một sự nghiệp Cao Văn Khánh.

Trong bối cảnh của sự suy thoái đạo lý xã hội, sự thoái hóa biến chất của không ít những người cầm quyền, kể cả những người ở cương vị mà “Trăm con mắt đều nhìn vào, trăm ngón tay đều chỉ vào” như lời cảnh báo của Phạm Văn Đồng cách đây 10 năm, đang ngày càng làm vẩn đục môi trường xã hội, thì việc quay trở lại cái chiều sâu nhân bản của một nền tảng văn hóa trong sự định hình nhân cách và phẩm tính làm người của Cao Văn Khánh là điều cần phải được nhìn nhận một cách nghiêm túc. Hình ảnh sống động của một con người như Cao Văn Khánh, nếu được suy nghĩ kỹ, phân tích kỹ, được nhìn nhận một cách nghiêm cẩn và giàu thiện ý, thì trong chiều cạnh nào đó, có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Ở đây không là tụng ca một con người, ở đây là bàn về cái gốc nhân bản, cái nền văn hóa đã định hình một nhân cách, nhân tố quyết định của tài năng và sự nghiệp rất cần cho việc định hướng phát triển của thế hệ trẻ hôm nay.

Để tránh những lập luận khô khan và tư biện, xin dẫn ra đây vài câu chuyện rất cụ thể, có khi là nhỏ nhặt. Lê Văn Khánh, vốn là học trò của thầy dạy toán Cao Văn Khánh hồi học ở Huế, kể lại rằng: “...có lần trong bài kiểm tra viết về toán, tôi chỉ ghi hai chữ Lưu Khánh vào bài khi tên tôi là Lê Văn Khánh. Khi trả bài, thầy gạch đỏ chữ Lưu và phê: “Pas serieux – 1 point” [không nghiêm túc, trừ 1 điểm]. Đã có lần thầy nhẹ nhàng khuyên tôi “Hãy cố gắng luyện văn”, thầy dạy toán lại nhắc nhở trò học văn... Khi tôi làm chủ nhiệm Công binh ở chiến dịch Đường 9-Nam Lào và chiến dịch Trị Thiên, thỉnh thoảng anh Cao trực tiếp gọi tôi lên báo cáo về tình hình đảm bảo công trình và lần nào cũng vậy, anh Cao ít khi hỏi đến những công việc đang triển khai bảo đảm cho ý đồ của chiến dịch. Những việc đó thường là do đồng chí tham mưu trưởng đã trực tiếp làm việc với các binh chủng rồi. Anh Cao thường hỏi những vấn đề sẽ phát triển của chiến dịch, những công việc của các bước tiếp theo. Có những việc tôi chưa kịp nghĩ đến, nhiều phen toát mồ hôi với sự cạn nghĩ của mình. Nhờ đó, chúng tôi tích lũy thêm được kinh nghiệm trong đời binh nghiệp của mình…”.

Sự nhất quán trong tính cách thấm đẫm “đức nhân”, “nhân chi pháp tại ái nhân, nghĩa chi pháp tại chính kỷ” (phép tắc của nhân là yêu người, phép tắc của nghĩa là chính mình) phải thể hiện ra trong những ứng xử nhỏ nhặt nhất. Từ chuyện nhỏ nhặt ấy, cho đến chuyện lớn như chuyện mà chúng tôi, với khí lượng hẹp hòi tầm nhìn hạn chế vẫn thường nghĩ đến và đã từng suy tư, ấy là chuyện suốt một thời gian rất dài, chúng tôi không hề đọc được, chưa hề nghe được những bài viết, bài nói nào về Cao Văn Khánh, có chăng chỉ một vài câu thoáng qua trong hồi ký hay đôi dòng phóng sự chiến trường của một ai đó. Đấy là chúng tôi, chứ anh, người trí thức, vị tướng Cao Văn Khánh, không một chút băn khoăn...

Có lẽ vì thế mà giờ đây, đứng trước mộ anh đang lộng gió trên ngọn đồi ở Bất Bạt, Yên Kỳ của một vùng trung du mà anh đã từng chỉ huy những trận đánh đi vào lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp, chúng tôi sung sướng vì chị Toản đã không chút do dự khi quyết định đưa anh Khánh thân yêu của chúng tôi lên đây.

Sinh ra từ đất, khi trở về với đất, con người bình dị và cao đẹp ấy có thể thanh thoát nơi chốn vĩnh hằng vì đã sống trọn vẹn một kiếp người với sự trọn vẹn của một nhân cách trí thức đích thực.

GS Tương Lai