QĐND - Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, với chủ trương đại đoàn kết dân tộc, cầu hiền dựng nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thu hút được đông đảo các nhân sĩ, trí thức danh tiếng để xây dựng chính quyền mới: Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn, Nguyễn Văn Tố, Phan Kế Toại, Phạm Ngọc Thạch, Hoàng Minh Giám, Nguyến Xiển, Tạ Quang Bửu, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Văn Huyên, Trần Duy Hưng, Nghiêm Xuân Yêm, Vũ Đình Tụng…

Luật sư Phan Anh là một người trong số đó

Phan Anh sinh năm 1911 tại làng Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ (Hà Tĩnh), một miền đất hiếu học sản sinh nhiều nhân tài cho đất nước. Mẹ ông mất sớm. Bố ông-cụ đồ Phan Điện là một nhà nho nghèo nên anh em Phan Anh từng phải đi ở, làm thuê. Nhưng trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ông và người em trai của mình là Phan Mỹ (sau này là Bộ trưởng, Chánh văn phòng Chủ tịch nước) đã quyết tâm học thành tài. Phan Anh vào học trường Bưởi (Hà Nội) từ năm 1926, khi tốt nghiệp đã dạy học ở trường Thăng Long, đồng thời theo học luật ở Trường Đại học Đông Dương năm 1937. Tốt nghiệp, ông được cấp học bổng sang Pháp tiếp tục học lên thạc sĩ, tiến sĩ…

Từ một luật sư nổi tiếng dưới thời Pháp thuộc, con đường nào dẫn Phan Anh đến với Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh? Ông kể: Sau khi học ở Pháp về, ông làm nghề luật sư bào chữa cho nhiều vụ án cách mạng Việt Minh. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên ở Hà Nội. Trong cuộc gặp đó, ông nhớ câu nói của Bác Hồ: Tin vào trí thức và động viên khuyến khích trí thức tham gia cách mạng bằng mọi cách có thể được.

Luật sư Phan Anh (1911-1990).

Sau cuộc gặp mặt đó, Bác Hồ đã giao cho Phan Anh nhiệm vụ tập hợp anh em trí thức lập một tổ chức gọi là “Hội đồng kiến thiết quốc gia” và chỉ định ông làm Chủ tịch. Sau đó ít lâu, Tổng tuyển cử đã bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Để bầu Chính phủ mới thực sự đoàn kết, chống nguy cơ quân Tàu Tưởng ở lỳ và quân Pháp quay trở lại, cần phải có một Chính phủ hợp pháp, tiêu biểu cho sự đoàn kết quốc gia. Một vấn đề khó giải quyết là giữa phía Việt Minh và phía đối lập không bên nào nhường bên nào hai bộ: Bộ Quốc phòng và Bộ Nội vụ, nên cuối cùng đi đến thỏa thuận là để hai bộ đó cho người trung lập nắm giữ. Chính trong hoàn cảnh đó, Bác Hồ đã giao cho Phan Anh làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ngày 3-5-1946 ở phiên họp khai mạc Quốc hội. Việc Bác giao những nhiệm vụ quan trọng cho ông và những trí thức khác thể hiện lời nói với hành động của Người là nhất quán: Luôn tin vào trí thức. Nhớ lại sự kiện này, luật sư Phan Anh viết: “Tôi rất xúc động và cảm kích trước tấm lòng bao dung của Bác. Bác đã không lấy việc tôi tham gia chính phủ Trần Trọng Kim làm điều, mà vẫn cho tôi là một trí thức yêu nước và trọng dụng. Thấm sâu tinh thần của Bác: Đoàn kết, đại đoàn kết và cảm ơn tri ngộ, tôi đã nhận nhiệm vụ Bác giao với một ý thức trách nhiệm sâu sắc” (Phan Anh- “Tôi đã tham gia Chính phủ Liên hiệp kháng chiến như thế nào?”-Tạp chí Lịch sử quân sự, số 36, tháng 12-1988, tr.9). Đáp lại niềm tin của Bác, ông cũng như bao trí thức khác đã đem hết khả năng, trí tuệ và nhiệt tình để đi theo Bác phục vụ Cách mạng từ những ngày đầu khó khăn gian khổ cho đến suốt hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc.  

Hồi ấy, chỉ huy về quân đội và các lực lượng vũ trang trong cả nước thuộc về Quân sự ủy viên hội do đồng chí Võ Nguyên Giáp đứng đầu, còn Bộ Quốc phòng chủ yếu tập trung về vấn đề chính trị, công tác quản lý hành chính quân sự như chỉ đạo xây dựng tổ chức, biên chế, trang bị và cấp dưỡng trong quân đội. Nhận nhiệm vụ Bác giao, Phan Anh bắt tay vào công tác tổ chức quân đội với sự cộng tác nhiệt tình của Thứ trưởng Tạ Quang Bửu và các cộng sự khác. Các kiến nghị của Bộ Quốc phòng được Bác Hồ duyệt và ban hành. Các sắc lệnh về tổ chức quân đội, về việc bổ nhiệm những người phụ trách đã ra đời. Rồi sắc lệnh 33/QP ngày 23-3-1946 xác định Vệ quốc đoàn là quân đội quốc gia nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Việc thành lập trường Võ bị Trần Quốc Tuấn cũng được Phan Anh đề đạt và được Bác Hồ thông qua.

Việc quyết định mời một luật sư nổi tiếng đảm nhiệm cương vị Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm nhiều người ngạc nhiên, nhưng thực tế Bác đã rất hiểu con người Phan Anh. Trước tháng 8-1945, luật sư Phan Anh cùng giáo sư Tạ Quang Bửu thành lập Trường Thanh niên Tiền tuyến ở Huế. Đây thực chất là trường đào tạo các chỉ huy quân sự nhằm “mục đích quốc gia và mục đích xã hội”. 43 học viên của trường này đa số đều là tú tài của Trường Quốc học Huế, rồi ra Hà Nội học lên cử nhân. Có người như Lê Thiệu Huy là học sinh giỏi nhất Đông Dương, con của Giải nguyên Hán học Lê Thước. Nhiều người trong số họ là con nhà “danh gia vọng tộc” như Lê Quang Long là cháu ngoại vua Thành Thái, gọi Bảo Đại bằng cậu; Tôn Thất Hoàng là con Thượng thư Tôn Thất Quảng: Võ Sum là con Án sát Võ Chuẩn, Đặng Văn Việt con trai Tổng đốc Nghệ An…Thế mà họ học ở Thanh niên tiền tuyến một thời gian, được Luật sư Phan Anh và Giáo sư Tạ Quang Bửu dìu dắt, với dòng máu yêu nước thương nòi luôn chảy trong huyết quản, nhiều người đã đi theo Cách mạng trọn đời, phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Trong số đó, có 8 vị đã trở thành tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam: Trung tướng Cao Văn Khánh, các Thiếu tướng Phan Hàm, Đoàn Huyên, Nguyễn Thế Lâm, Vũ Quang Hồ, Đào Hữu Liêu, Nguyễn Thế Lương (Cao Pha), Mai Xuân Tần.

Hồ Chủ tịch và phái đoàn Chính phủ Việt Nam dự Hội nghị Phông-ten-nơ-blô (Fontainebleau) ở Bi-a-rít (Biarritz). (Luật sư Phan Anh ngồi hàng đầu, thứ tư từ trái sang).

Tháng 7-1946, Luật sư Phan Anh tham gia phái đoàn Việt Nam đàm phán với chính phủ Pháp ở Phông-ten-nơ-bơ-lô (Fontainebleau) với tư cách là Tổng thuyết viên của đoàn Việt Nam do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu. Từ đầu năm 1947 cho đến năm 1976, ông được cử giữ chức vụ Bộ trưởng các bộ: Kinh tế, Công Thương, Ngoại thương. Ông liên tục được bầu là đại biểu Quốc hội từ khóa 2 (1960) đến khóa 8 (1987).

Từ một luật sư dưới chế độ cũ, ông đã trở thành chính khách của nước Việt Nam mới, với 30 năm giữ cương vị Bộ trưởng, 30 năm là đại biểu Quốc hội, thành viên ủy ban Pháp luật của Quốc hội, Phó chủ tịch Quốc hội khóa 8.

Học vấn uyên bác, sự nhạy cảm về chính trị, tâm hồn, đạo đức trong sáng, suốt đời là “công bộc của nhân dân” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những yếu tố giúp Phan Anh thành công trong hoạt động chính trị trong nước và quan hệ với chính khách nước ngoài.

Năm 1955, Hội luật gia Việt Nam được thành lập. Trong 35 năm trên cương vị Chủ tịch hội (1955-1990), Luật sư Phan Anh từng bước đưa tổ chức nghề nghiệp mang tính chính trị, xã hội từng bước trưởng thành, lớn mạnh. Hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam và bản thân Luật sư Phan Anh đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhằm bảo vệ lợi ích dân tộc, chủ quyền quốc gia, đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Được bầu vào cơ quan lãnh đạo Hội luật gia dân chủ quốc tế, Phan Anh đã đại diện cho giới luật gia Việt Nam tham gia nhiều Đại hội Hội Luật gia dân chủ quốc tế ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Ông còn tham gia các hoạt động của Hội đồng hòa bình thế giới với cương vị Phó chủ tịch Hội đồng. Trên mặt trận này, là một trí thức yêu nước, một luật gia lỗi lạc, ông đã thuyết phục được các đồng nghiệp nước ngoài về tính chính nghĩa cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và tranh thủ sự đồng tình của các đại biểu tham gia Đại hội ủng hộ nhân dân ta. Đánh giá về luật sư Phan Anh, ông Rô-mét Chan-đra (Romesh Chandra), Chủ tịch danh dự Hội đồng Hòa bình thế giới viết: “Luật sư Phan Anh là tấm gương sáng chói và đã chiếm được cảm tình của hàng nghìn người bằng sự khiêm tốn và lòng thiết tha chống đế quốc. Đối với cá nhân tôi, Phan Anh luôn là người chỉ dẫn, người thầy giáo, một biểu tượng của nhân dân Việt Nam anh hùng”.

Ông rất quan tâm đến việc tập hợp đội ngũ luật gia Việt Nam phục vụ công cuộc xây dựng đất nước. Trong những năm cuối đời (1987-1990), cùng với Ban dân chủ-Pháp luật của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà ông là Trưởng ban, Luật sư Phan Anh đã góp ý kiến về nhiều văn bản pháp luật quan trọng như Bộ luật Tố tụng Hình sự (1987), Pháp lệnh Tổ chức Luật sư (1987). Ông nhấn mạnh vai trò của luật sư trong nhà nước Việt Nam, khẳng định vị trí và tầm quan trọng của tổ chức này trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng một nên tư pháp của dân, do dân và vì dân.

Như vậy, trong suốt cuộc đời sôi nổi của mình, Luật sư Phan Anh được Đảng và Bác Hồ trao nhiều trọng trách. Nhiệm vụ nào ông cũng tận tâm, tận lực, tận tụy phục vụ đất nước và để lại dấu ấn quan trọng. Phan Anh không phải là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng ông sống, lao động và chiến đấu như một người cộng sản. Bởi lẽ, thời đại của ông sống là một thời đại lịch sử rất vẻ vang mà trung tâm là cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân và thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Thời đại ấy đã làm nên những phẩm chất của một đội ngũ trí thức Việt Nam yêu nước, thương nòi, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc, vì nhân dân. Và điều quan trọng là thời đại ấy được dẫn dắt bởi một con người đã hoàn toàn chinh phục trái tim và khối ốc đội ngũ trí thức như ông. Đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trần Thiên