 |
Nguyễn Văn Mười (thứ hai từ trái sang) cùng đồng đội học viên trường Võ bị Trần Quốc Tuấn |
Chúng tôi đến thăm bà Trịnh Thị Mảy thuộc thôn Đoàn Kết, xã Cổ Đông, thành phố Sơn Tây, Hà Nội vào một ngày đẹp trời. Ngôi nhà mái bằng khang trang của bà nằm trong một khuôn viên gần 1.000m2 xanh tươi màu lá. Khi biết chúng tôi đến thăm bà để lấy tư liệu viết về truyền thống gia đình, mắt bà nhòa lệ. Rồi từng trang hồi ức hiện ra những ngày tháng gian khổ của ông và bà đã vượt mọi khó khăn, cống hiến sức lực và trí tuệ nhỏ bé của mình hiện ra rõ mồn một...
Năm 1953, Nguyễn Văn Mười - chàng trai Hương Xuân, Hương Trà, Thừa Thiên-Huế về đóng quân ở xã Thạch Thanh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Những ngày tháng đóng quân trên đất Hà Tĩnh nặng tình người, tình yêu giữa người chiến sĩ xứ Huế và cô Trịnh Thị Mảy con gái bà cán bộ Hội phụ nữ xã Thạch Thành, Hà Tĩnh nảy nở.
Nhiệm vụ của người chiến sĩ phía trước rất nặng nề, anh phải lên đường đi chiến đấu. Năm 1954, Mười được cấp trên cử đi đào tạo sĩ quan tại trường Võ bị Trần Quốc Tuấn tại Trung Quốc. Năm 1956, trở về nước, Nguyễn Văn Mười đã trở lại mảnh đất Hà Tĩnh để kết hôn với cô thôn nữ Trịnh Thị Mảy. Năm 1957, được quân đội tiếp tục cử đi học tại Trường quân sự cao cấp Vũ Hán (Trung Quốc). Mùa hè năm 1959 anh trở về Tổ quốc và về trường Võ bị Trần Quốc Tuấn làm giáo viên Khoa Xạ kích, lúc này nhà trường đã chuyển về nước đào tạo. Năm 1960, Mười đưa vợ ra làm công nhân tại nhà trường. Lúc này con gái đầu lòng của họ đã ra đời, đó là kết quả của mối tình xa cách, thủy chung, trong trắng, nồng thắm được đặt tên là Việt Hoa (Nguyễn Thị Việt Hoa) cái tên mang dấu ấn của mối tình vượt biên giới. Hằng ngày, anh Mười lăn lộn trên thao trường với những bài xạ kích súng ngắn, súng trường, lựu đạn, bộc phá… Mồ hôi nhễ nhại, nhưng khi về gia đình được gặp con gái, nhìn đôi mắt đen tròn, ngơ ngác, ngây thơ của bé Việt Hoa anh như quên hết sự mệt nhọc, vất vả đó. Đến năm 1961, Mười được lệnh đi chiến đấu ở chiến trường B, lúc này vợ anh đã có mầm sống thứ hai đang hình thành.
Sau đó, Mười được điều về làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 40, Trung đoàn bộ binh 1 thuộc Sư đoàn 2, Quân khu 5. Khi ấy Trung đoàn 1 do đồng chí Nguyễn Chơn làm Trung đoàn phó kiêm tham mưu trưởng (sau này đồng chí Nguyễn Chơn là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân- Thứ trưởng Bộ Quốc phòng). Tiểu đoàn 40 của Mười trong đội hình của Trung đoàn 1 đã chiến đấu nhiều trận, trong đó có trận tiến công cứ điểm Quang Thạnh - một trong những trận chiến đấu thắng lợi có hiệu suất diệt địch cao.
Cứ điểm Quang Thạnh nằm trên địa bàn xã Sơn Kim, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Từ cứ điểm này, bọn giặc thường xuyên cho quân xuống càn quét, cướp phá, giết người cướp của gây nên nhiều tang tóc. Đứng một cứ điểm phòng ngự mạnh như Quang Thạnh thì bộ đội địa phương và dân quân du kích không thể đập tan được, chỉ chờ quân chủ lực về chiến đấu. Tiểu đoàn của Mười được giao nhiệm vụ tiến công trên hướng chủ yếu, đánh thẳng vào sở chỉ huy địch của cứ điểm phòng ngự Quang Thạnh. Nhận nhiệm vụ khó khăn và quan trọng này, Mười suy nghĩ, làm thế nào để đánh bảo đảm chắc thắng. Anh trực tiếp xuống các thôn, làng của xã Sơn Kim mời những nạn nhân còn sống sót sau các vụ càn quét, cướp phá, tàn sát của giặc lên đơn vị kể lại cảnh bắn giết của chúng cho bộ đội nghe. Mọi người thấy như hiện lên trước mắt mình tội ác dã man của quân thù. Nghe kể chuyện nhiều cán bộ, chiến sĩ trong tiểu đoàn không cầm nổi nước mắt, lòng căm thù giặc bốc lên ngùn ngụt, ý chí chiến đấu dâng lên cao hơn bao giờ hết. Ai ai cũng muốn được cầm súng ra trận tiêu diệt cứ điểm Quang Thạnh trả thù cho bà con, nhân dân Sơn Kim. Lập tức tiểu đoàn tổ chức buổi lễ phát động thi đua giết giặc lập công ngay tại chỗ, ai cũng đăng kí thi đua diệt được nhiều giặc, dù có phải hy sinh thân mình. Tháng 2-1967, Tiểu đoàn 40 của Mười đã tiêu diệt 420 tên địch thu nhiều vũ khí trang bị quân dụng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Sau trận Quang Thạnh, Mười tham gia rất nhiều trận đánh trên chiến trường Quảng Nam, Quảng Ngãi. Ngày 25-5-1968 Nguyễn Văn Mười ngã xuống trong một trận tiến công quân địch, máu của anh hòa cùng đồng đội đã nhuộm đỏ đất Quảng Ngãi. Thịt xương của anh lẫn vào cây cỏ đâu đó của chiến trường xưa. Nguyễn Văn Mười hy sinh khi chưa kịp nhìn thấy mặt đứa con gái thứ hai và để lại người vợ trẻ và hai cô con gái nhỏ ngây thơ ở hậu phương miền Bắc.
Những năm tháng Mười ở chiến trường,chị Mảy một nách hai con luôn phải theo đơn vị đi dã ngoại, sơ tán. Tháng nào chị cũng nhận được thư của chồng từ chiến trường. Những cánh thư gấp bé tẹo, trong phong bì nhỏ bằng bao thuốc lá được anh Mười để lại dọc đường hành quân. Đó là động lực tinh thần to lớn, là niềm hy vọng vô bờ bến của chị Trịnh Thị Mảy và hai đứa con thơ. Từ tháng 5 năm 1968, chị Mảy không còn nhận được những lá thư tràn đầy niềm hy vọng và tình yêu thương tha thiết ở chiến trường gửi về nữa. Chị linh cảm thấy sự mất mát khủng khiếp đã đến…
Năm 1974 cả gia đình bé nhỏ của Việt Hoa nhận được giấy báo tử của cha. Ba vành khăn trắng trên đầu run rẩy tựa vào nhau trong nỗi đau tột cùng và sự chia sẻ, động viên của đồng đội, người thân và bạn bè. Cái tin sét đánh ngang tai ấy làm mẹ con Hoa ngất đi ngất lại nhiều lần. Hoa là con gái lớn cô hiểu mình phải là trụ cột về tinh thần đối với gia đình yêu thương này. Cô ôm chặt mẹ và em thầm hứa sẽ cố gắng học tập chăm ngoan, không phụ lòng cha mẹ.
Năm 1978, Hoa đỗ thủ khoa vào Khoa Ngữ văn của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Công việc học tập căng thẳng và môi trường đại học đã khiến Hoa tạm lắng lòng. Hoa tốt nghiệp đại học loại ưu, năm 1983 trở về Trường Sĩ quan Lục quân 1 với cương vị là nhân viên của Ban Thông tin - Tư liệu. Lúc này Hoa hoàn toàn xa lạ với công việc mới. Cô thầm hiểu một thử thách mới đang đón chờ mình. Tháng 8-1991, sau hơn 8 năm làm nhân viên, Hoa được chuyển về Khoa Cơ bản Ngoại ngữ làm giảng viên. Từ đây, Hoa say sưa giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Nhiều lớp học viên được cô giảng dạy đều không quên cô giáo Hoa với những bài giảng văn sâu sắc, ấn tượng. Mặc dù đã rất hạnh phúc bên chồng và đứa con trai, nhưng Việt Hoa vẫn canh cánh nỗi lòng tìm cha…
Mỗi lần về thăm mẹ, Việt Hoa lại đến bên bàn thờ cha thắp nén nhang và cầu mong: “Cha ơi, xin hãy giúp chúng con, hãy mách bảo những người bạn, người đồng đội của cha chỉ lối cho chúng con tìm ra mộ của cha. Bởi vì, cha ạ! Mẹ vẫn đợi cha về!”.
NGUYỄN VĂN LAI