 |
Bác sĩ Bùi Thị Bích Thủy và bác sĩ Đỗ Duy Cường đang chăm sóc bệnh nhân tại trung tâm điều trị bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS. |
Tôi đến Bệnh viện Việt-Tiệp Hải Phòng vào cuối ngày làm việc. Tại khoa truyền nhiễm, các bác sĩ đang còn rất tất bật với các bệnh nhân HIV/AIDS. Bệnh nhân nằm rất đông, mỗi người một vẻ, nhưng đa số còn rất trẻ, họ chủ yếu đều là bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS giai đoạn cuối. Các triệu chứng phát bệnh của họ khác thường. Họ rất gầy, có người chỉ còn da bọc xương, những cơn đau làm họ nhăn nhó, khó chịu, la hét, có người kêu: “Mẹ ơi, con đau lắm!”; có người vẫn còn bị xích hai chân bằng dây sắt, họ là tù nhân từ nhà tù chuyển sang. Tôi nhìn tất cả đều cảm thấy rất thương.
Sau mấy ngày ở đây, tôi được nghe nhiều người nói đến bác sĩ Bùi Thị Bích Thủy, Trưởng bộ môn Truyền nhiễm, Đại học Y Hải Phòng, Phó khoa truyền nhiễm Bệnh viện Việt-Tiệp. Bác sĩ Thủy là một người được rất nhiều bệnh nhân HIV/AIDS nhớ tới và cảm phục. Chị yêu nghề, tâm huyết với công việc chữa bệnh HIV/AIDS. Công việc chăm sóc bệnh nhân nhiễm HIV hình như ăn vào máu chị từ lúc nào. Bệnh nhân Phan H.Q, 34 tuổi, ốm rất nặng, anh vào bệnh viện nhiều lần, người nhà có vẻ không quan tâm đến anh lắm. Chiều hôm trước, trước khi anh nhắm mắt, trút hơi thở cuối cùng còn nói với tôi: “Bác sĩ Thủy rất tốt”.
Tôi quyết định tìm gặp chị. Chị đã giúp tôi hiểu đầy đủ, toàn diện về bệnh nhân HIV, từ đó tôi có một cái nhìn, suy nghĩ rất khác về những người bác sĩ ở khoa đặc thù này. Rồi thông qua đồng nghiệp, qua tâm sự của bệnh nhân, sinh viên của chị, tôi càng cảm phục tài năng và đức độ của bác sĩ Thủy. Khi biết tôi có ý định viết về chị thì chị nhất định không muốn, nhưng sau rất nhiều lần đề nghị tôi cũng trò chuyện được với chị.
Chị sinh ra ở Thái Bình, tốt nghiệp Đại học Y Hà Nội năm 1981. Khi ấy chị mới 23 tuổi. Ra trường, chị được phân công về công tác tại bộ môn Truyền nhiễm Đại học Y Hải Phòng, đồng thời là một bác sĩ điều trị tại khoa Truyền nhiễm Bệnh viện Việt-Tiệp. Chị bắt đầu chăm sóc và điều trị bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS từ năm 1998. Những ngày đầu, do chưa có kiến thức và hiểu biết nhiều về HIV/AIDS, tâm lý chị rất buồn, chán công việc, đặc biệt khi mà người thân và xã hội nhận thức chưa đúng.
Tháng 3-2003, chị được dự một lớp tập huấn đầu tiên về HIV/AIDS do Bộ Y tế tổ chức. Gần 20 giảng viên đến từ Đại học Hardvard Hoa Kỳ tham gia giảng dạy. Chị bị hấp dẫn bởi kiến thức hiện đại về HIV/AIDS. Chị nói: “Chính kiến thức, thái độ, phương pháp dạy học của nhóm giảng viên này đã làm thay đổi chúng tôi, thay đổi toàn bộ nhận thức, thái độ và hành vi của chúng tôi đối với các bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS. Kiến thức về HIV/AIDS rất khó, nhưng rất hấp dẫn chúng tôi. Chúng tôi có ấn tượng sâu sắc với giáo sư Peter A Sylwn, trưởng khoa Y học gia đình, Giám đốc chương trình chăm sóc giảm nhẹ của Trung tâm y học Montefiore, Niu Y-oóc, Mỹ. Trong một bài giảng, ông ấy đã nói: “Nếu bạn mắc bệnh ung thư thì nhiều khi là án tử hình treo trước mặt bạn, nhưng nếu bạn bị nhiễm HIV/AIDS thì đó chỉ là một bệnh mãn tính”. Và “coi cái chết là một quá trình bình thường không cố ý đẩy nhanh hay trì hoãn cái chết”. Những câu nói đó đã làm thay đổi thái độ của chúng tôi đối với người sống chung với HIV. Chúng tôi hiểu rằng, cuộc sống của người nhiễm có thể được kéo dài, nếu họ được chăm sóc điều trị tốt. Và thực tế đã chứng minh điều đó. Rất nhiều bệnh nhân nhiễm tưởng không thể chữa khỏi nhưng họ hồi phục rất nhanh sau đó. Điều đó khích lệ những người chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS say mê công việc”...
Bạn của tôi vào viện trong tình trạng hết sức suy kiệt, môi thâm, mắt trắng, nhiễm HIV/AIDS giai đoạn cuối. Vốn là một họa sĩ có tài, nhưng anh bị nhiễm bệnh từ rất lâu rồi. Anh phải nhập viện vì bệnh phát chạy vào não, không ăn được và nằm liệt giường. Thêm nữa, trong người anh bạn tôi còn phát ra nhiều bệnh khác. Tâm lý người nhà không muốn chữa vì biết rằng đằng nào anh bạn tôi cũng chết. Nhưng bác sĩ Thủy luôn đặt niềm tin tìm kiếm sự sống cho anh và anh ấy cũng được ra viện vào một ngày cuối năm. Về ăn thêm một cái tết và vẽ được rất nhiều bức tranh, sau gần một năm mới mất. Trước khi mất anh tâm sự với tôi, nếu anh ấy làm theo lời tư vấn của bác sĩ Thủy, sống tích cực hơn, tuân thủ uống thuốc đầy đủ thì có thể sự nghiệp sáng tác của anh được kéo dài thêm mấy năm nữa.
N.V.S (Thủy Nguyên, Hải Phòng) vào viện trong trạng thái hôn mê và liệt nửa người đúng ca trực của chị. Khi biết bệnh nhân bị nhiễm HIV, gia đình cương quyết xin về nhà. Họ không muốn điều trị nữa, vì nghĩ rằng bệnh nhân không thể cứu được, nhưng chị vẫn kiên nhẫn thuyết phục người nhà bệnh nhân:
- Hôm nay là ca trực của tôi, các bác đừng xin bệnh nhân về nhé. Bây giờ tôi phải đi dạy học, chiều tối tôi sẽ quay lại. Tôi hy vọng là vẫn nhìn thấy bệnh nhân ở đây. Hãy để bệnh nhân ở lại điều trị, nếu sau ba ngày nữa bệnh nhân không tiến triển tốt lên, tôi sẽ đồng ý để các bác mang bệnh nhân về.
Và thật may mắn, bệnh nhân S đã thoát ra khỏi hôn mê sâu, sau một tuần điều trị và sau đó đi lại được bình thường, được xuất viện sau 11 ngày điều trị.
Điều đáng trân trọng là thái độ, tình yêu thương, thông cảm, sự chân thành và chu đáo của chị đối với bệnh nhân nhiễm HIV. Điển hình như anh bạn tôi rất nghèo, không có tiền mua thuốc. Bác sĩ Thủy giúp đỡ mọi thủ tục hành chính để tạo điều kiện được cấp thuốc miễn phí. Đó là những việc làm thường xuyên của chị đối với mọi bệnh nhân. Chị nói với tôi: “Không có một căn bệnh nào cần sự yêu thương và chia sẻ như người nhiễm HIV/AIDS”. Người bị nhiễm HIV phải chịu đựng bao nỗi đau đớn, nỗi đau về thể chất và hơn thế nữa đó là nỗi đau tinh thần. Chính nỗi đau tinh thần, sự kỳ thị đã làm bệnh nhân suy sụp, khủng hoảng rất nhanh. Chị kể với tôi, khoa có rất nhiều người tâm huyết, như bác sĩ trưởng khoa Ngô Việt Hùng, điều dưỡng trưởng khoa Hoàng Thị Bình, bác sĩ trẻ Ngô Anh Thế, Phạm Thị Vân Anh và các nhân viên khác.
Tôi đã chứng kiến những lúc làm việc chị, hết sức bận rộn. Chị giảng dạy cho sinh viên tại hội trường, điều trị, khám tư vấn cho bệnh nhân và người nhà bệnh nhân tại phòng khám ngoại trú. Chị vừa điều trị, vừa khám, vừa tư vấn cho người bệnh. Rồi sinh viên theo chị đến từng giường bệnh nhân.
Tôi nghĩ, ở đời người ta làm việc gì cũng đều tính toán thiệt hơn. Nhưng ở chị, tôi lại thấy một sự hy sinh lớn lao lắm. Lòng thánh thiện, tình yêu nghề nghiệp và một niềm tin vào người bệnh đã khiến chị hết lòng vì những con người không may nhiễm căn bệnh quái ác này.
Người ta vẫn thường nói rằng, lý thuyết gắn với thực tiễn là nguyên tắc luận căn bản trong quá trình nhận thức của con người. Nó giúp chúng ta nhận thức chân lý tốt hơn, bởi thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Bao nhiêu trăn trở, bao nhiêu kinh nghiệm khó khăn và sự sáng tạo trong từng bệnh nhân đó được truyền lại cho lớp học trò thân yêu của mình trong bài giảng lý thuyết. Nghề giáo và nghề y hội tụ trong con người chị một vẻ đẹp giản dị mà cao quý. Chị bảo: “Trong ngành y, lý thuyết luôn đi đôi với thực hành. Tôi luôn nói với đồng nghiệp, nếu tôi phải giảng một bệnh mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy người mang bệnh đó thì tôi không thể giảng hay được, bài giảng sẽ trở nên vô hồn. Thực tế lâm sàng sẽ làm sinh động cho bài giảng lý thuyết”.
Hiện diện trong nỗi niềm sâu thẳm của chị, tôi đọc được sự trăn trở, khó khăn lớn nhất của các bác sĩ điều trị HIV là làm việc căng thẳng nhưng lương thấp. Đối tượng phục vụ hầu hết là người tiêm chích ma túy. Họ rất nghèo, chịu sự kỳ thị nặng nề của xã hội, họ mặc cảm, đôi khi họ rất khó tính. Và chị mong muốn rất nhiều, nhưng mong muốn nhất hiện nay là có bảo hiểm y tế toàn dân để các điều dưỡng của chị không phải nhắc bệnh nhân đi đóng tiền viện phí (đôi khi có thể gây hiểu lầm từ phía bệnh nhân và gia đình). Đời sống của các nhân viên y tế chăm sóc bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS rất nghèo nhưng họ rất siêng năng và chịu đựng, đặc biệt ai cũng giàu lòng nhân hậu. Ngoài công việc chăm sóc bệnh nhân tại bệnh viện, đào tạo cho sinh viên y khoa, chị còn tham gia giảng dạy cho các lớp tập huấn về HIV/AIDS của quốc gia, hỗ trợ kỹ thuật điều trị ARV cho các tuyến y tế cơ sở.
Chị dành rất ít thời gian cho bản thân. Chị sống một mình trong căn hộ tập thể của Trường Đại học Y Hải Phòng, không rộng lắm. Bạn bè thường nói vui với chị: “Rô-bin-xơn giữa một biển người”, ý nói cô đơn giữa nhiều người. Nhưng chị thì nghĩ khác, sống một mình, nhưng không bao giờ cảm thấy cô đơn vì công việc choán hết thời gian của chị. Gia đình riêng của chị không trọn vẹn, hình như chị không muốn chia sẻ với tôi về chuyện gia đình. Nhưng chị còn bố mẹ, anh chị em và đứa con gái đã chia sẻ và đồng cảm với chị, họ dành nhiều thời gian cho chị làm việc.
Chia tay với chị, ra khỏi không khí ngột ngạt của bệnh viện, tôi bước ra đường phố. Thành phố Cảng đã lên đèn, gió từ bờ sông thổi lên mát rượi. Dòng người đang xuôi ngược tất bật với cuộc đời biết bao toan tính, vụ lợi, danh vọng và tiền tài. Nhưng chị và các đồng nghiệp tại khoa lây nhiễm Bệnh viện Việt-Tiệp Hải Phòng đang tìm cách hạn chế nỗi đau cho các bệnh nhân HIV/AIDS. Và bác sĩ Thủy, một con người bình dị với những công việc hết sức âm thầm. Tôi gọi chị bằng cái tên thân thương mà đồng nghiệp của chị đã gọi: “Người đàn bà gan góc với HIV/AIDS”.
Bài và ảnh: PHẠM XUÂN TRƯỜNG