 |
Bà Vân chăm sóc đu đủ trong vườn nhà |
Cuộc đời bà dẫu có viết thành một cuốn tiểu thuyết cũng không hết chuyện. Thời trẻ nuôi con mồ côi, đến lúc già tưởng được an nhàn, lại quay sang nuôi cháu mồ côi. Còn nỗi đắng cay nào hơn không? Bây giờ nhà cao cửa rộng, dưới ao có cá to, trên rừng có cây quả sẵn, bà mở lòng nhận giúp đỡ, tạo việc làm, dựng vợ, gả chồng cho những người nghèo khó, cơ nhỡ... Bà là Nguyễn Thị Vân, trú tại xã Dân Hạ, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình.
Quá khứ không ngọt ngào
Con dốc cao, kéo dài hơn 1km, mỗi lần đến mùa mưa khó đi khiến những người từ nơi khác tìm đến phải gửi xe phía ngoài làng. Vậy mà tuổi 70 bà vẫn phóng xe qua không một chút khó khăn, khiến những người khác phải trố mắt nhìn vì ngạc nhiên. Ngày nào bà cũng cưỡi con ngựa sắt (chiếc Dream) chở thức ăn từ chợ về cho công nhân qua con dốc ấy. Mùa này, công nhân chỉ có 5, 6 người nên cũng đỡ vất vả, chứ vào vụ, có khi lên đến 40 người, việc đi chợ không đơn giản chút nào.
Bà là con lớn trong một gia đình 9 anh chị em, cách trung tâm Hà Nội có vài chục ki-lô-mét nhưng vì nhà đông anh em, ruộng ít nên cuộc sống rất khó khăn. Khi vừa tròn 17 tuổi mẹ đã vội gả chồng để đỡ một miệng ăn.
“Tôi thương mẹ nên chả bao giờ dám trách”-Bà nói với tôi. 9 năm lấy chồng nhưng cuộc sống cũng không khá hơn. Năm 1968, vợ chồng con cái dắt díu nhau lên Hòa Bình lập nghiệp. Nào là trồng ngô, trồng sắn, trồng khoai, trồng mía lấy mật và buôn bán đủ thứ nghề để sống. Từ hai bàn tay trắng, vợ chồng bà cũng có của ăn của để. Bà bàn với chồng góp tiền đi buôn trâu. Vay mượn và cắm nhà lấy vốn, mua được 21 con trâu đưa về xuôi. Ai ngờ đến Vĩnh Phúc bị giữ lại, vì công an Vĩnh Phúc vừa khám phá một vụ ăn trộm trâu. Người ta khai bán cho bà, thế là bị bắt. Dẫu biết mình oan ức, nhưng lúc bấy giờ, làm thịt con lợn còn phải xin phép huống hồ mình tiêu thụ tận 7 con trâu ăn cắp(!). Bà bị xử ba năm tù và đi cải tạo ở trại giam Tam Đảo, còn kẻ trộm trâu bị xử gấp đôi.
Vậy là bao nhiêu vốn liếng mất hết. Vào tù vài tháng bà nhận được tin mẹ ốm nặng qua đời, sau đó không lâu chồng cũng ra đi. Nhiều đêm không ngủ được vì thương hai đứa con nhỏ không biết sống ra sa? Lúc đầu bà thất vọng lắm, nhưng lại nghĩ phải cải tạo thật tốt, mong sớm trở về với con. Trong thời gian ở tù bà xin nhận một trại chăn nuôi với cam kết sẽ cung cấp đủ thức ăn cho người tù nhân. Được sự đồng ý, bà bắt tay vào làm đậu, nuôi lợn, trồng rau… rồi chăn nuôi gà, vịt, ngan… Từ ngày bà lên làm đội trưởng, trại chăn nuôi đã có thể cung cấp đầy đủ lương thực cho người tù trong trại. Do cải tạo tốt, bà được xét đặc xá trước thời hạn gần hai năm.
Sau hơn 500 ngày ăn cơm tù, bà trở về quê khi căn nhà đã bị chiếm, hai đứa con (con trai 13 tuổi và con gái 11 tuổi) đang đi ở cho người ta, bà khóc hết nước mắt trên đường đón chúng về nhà. Ban đầu, đứa con gái không chịu nhận mẹ. Nó xấu hổ vì mẹ ở tù ra. Bà và con trai thuyết phục mãi, giải thích rằng mẹ bị tù oan, nó mới nghe. Ba mẹ con dắt nhau vào tận cùng của xóm Vặc, xã Dân Hạ, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình, quyết chí làm lại từ đầu. Hồi đó, xung quanh xóm Vặc toàn rừng, một thời gian dài có người dưới Hà Tây lên khai hoang nhưng nhiều thú rừng quá nên đành bỏ lại. Mấy mẹ con vì không có đất nên liều mình ở. Đêm, ba mẹ con ngồi dưới gốc cây khế, nghe tiếng beo kêu, hổ gầm trên núi, không dám thở mạnh. Rồi mệt quá ôm nhau ngủ lúc nào không biết. Sáng hôm sau tỉnh dậy, lại dắt díu nhau lên rừng chặt lá, chặt cây dựng tạm một cái lều bên dòng suối. Phải mất ba ngày mới dựng xong. Kể từ đó, họ có chỗ để trú mưa, tránh nắng.
Những ngày tiếp theo là sự vất vả khốn cùng. Mấy mẹ con nắn dòng suối ở rừng cho thẳng rồi đào rộng hai bên, đắp đập lên thành cái ao để thả cá, phía dưới cấy lúa. Sáng mồng một Tết, thiên hạ đưa nhau đi chúc tụng, mấy mẹ con vẫn cặm cụi vét bùn, đắp ao thả cá. Trưa, nghỉ tay ăn cơm, đứa con trai lớn bảo: “Chúng con nghỉ học ở nhà làm cùng mẹ!”. Bà phải thuyết phục mãi chúng mới chịu đi học tiếp.
Lúc mới ra tù, bà chỉ có một bộ quần áo. Cứ ngày mặc, đêm giặt phơi để sáng hôm sau kịp khô mặc tiếp. Có những hôm trời mưa, sáng dậy áo quần còn ướt cũng phải mặc vào người vì không có tiền để mua bộ khác. Phải gần hai tháng sau mới đủ tiền mua thêm bộ nữa.
Ban đầu, chưa có vốn nên chỉ trồng lạc, ngô, sắn… Khi có vốn bà thấy cơ chế đã khác, hơn nữa cũng hiểu luật pháp hơn, nên bà quyết định lại tiếp tục buôn trâu. Cùng thời điểm này bà nuôi 10 con lợn. Ngày nào cũng thế 3 giờ sáng dậy, nấu 2 nồi rượu để lấy bã và hai nồi cám để đêm về muộn có thức ăn cho lợn. Trời sáng, bắt đầu cuộc hành trình đi mua trâu về bán. Cũng bắt đầu từ đây, cuộc sống của bà khấm khá dần lên, có tiền thuê người làm. Hai con lớn dựng vợ, gả chồng, ra ở riêng. Bà lại ở một mình.
Nhưng con trai lấy vợ được mấy năm thì mất, để lại đứa con 6 tuổi. Một năm sau, con dâu đi bước nữa, bà quyết định đón cháu về nuôi. Thế là cả đời bà đã nuôi con mồ côi, giờ đến lượt nuôi cháu. Cháu còn quá nhỏ lại không có bố mẹ ở bên, nên từ khi cháu vào lớp 2 cho đến lớp 7 ngày nào bà cũng thuê xe ôm, sáng đưa cháu đến trường, chiều đón về. Và bà chờ sẵn cho cháu đỡ tủi thân. Suốt 5 năm liền như vậy, dù mưa hay nắng, chưa một ngày nào bà lỗi hẹn với cháu. Bà còn có một nếp quen, sáng nào trước khi đến trường cũng dẫn cháu đứng trước ban thờ, thắp hương khấn vái mong trời phật phù hộ để cháu mạnh khỏe, học hành đến nơi đến chốn. Bà quyết chí không để cháu thiếu chữ như bà.
Thời điểm đó, con đường từ nhà bà ra đường lớn toàn đất đỏ nên cứ mưa xuống là trơn như đổ mỡ. Có hôm bị ngã đau quá bà quyết định nhặt đá về đổ dọc đoạn đường. Và từ đó, những người dân quanh vùng vẫn gọi đó là “đường bà Vân”.
Yêu thương tất cả
Đến nay, 47ha rừng cây keo và cây quế, 6 năm thu hoạch một lần, tính trung bình mỗi héc-ta bà thu về khoảng 80 triệu đồng. Đấy là chưa kể vườn cây, ao cá mỗi vụ thu hoạch cũng hàng chục triệu đồng. Vào thời vụ, số lao động bà thuê có khi lên đến 47 người. Tất cả đều làm việc hăng say và không phàn nàn gì, bởi tất cả họ đều là con em dân tộc thiểu số thất học được bà đón về làm, trả lương theo tháng, cơm ăn ngày ba bữa, thưởng-phạt phân minh.
Bà yêu thương tất cả công nhân, gọi là cháu xưng bà, nhưng cũng sẵn sàng quát mắng nếu đứa nào lười và không nghe lời. Từ nơi làm việc của bà, đã có 6, 7 đôi uyên ương nên duyên chồng vợ. Bà tổ chức đám cưới miễn phí cho chúng, chụp ảnh, quay phim và làm hơn cả trách nhiệm của một người bà lo cho cháu.
Ngay từ tấm bé bà không được hưởng tình yêu thương đầy đủ, kể cả khi lớn lên cũng không được một ngày vui. Nên bây giờ bà chỉ mong những đứa có hoàn cảnh như bà có đôi có lứa. Hạnh phúc của chúng như hạnh phúc của bà. Nhiều cặp lấy nhau thành vợ, thành chồng xin bà về quê gây dựng cuộc sống riêng, bà tuyệt nhiên không ngăn cản một trường hợp nào, thậm chí còn động viên. Rất mừng là đến nay cũng có người đã thành ông chủ, thi thoảng lại dắt díu con cháu lên thăm bà. Đó là một niềm vui tuổi già mà ông trời đã ban tặng cho bà. Lại có cặp vợ chồng muốn ở lại lập nghiệp trên mảnh đất này, bà sẵn sàng hướng dẫn cách làm ăn và cho vay vốn để trang trải khó khăn lúc đầu. Có người trước khi đến nghiện thuốc phiện rất nặng, bà vẫn nhận, giao việc rồi khuyên bảo và xây dựng gia đình riêng cho. Có gia đình, có công việc, hầu hết họ đã cai nghiện được.
Tỷ phú trồng rừng
Giờ đây, không phải lo miếng cơm manh áo, nhà lớn nhất vùng nhưng chỉ có hai bà cháu nên đôi khi cũng buồn. Bà bảo làm nhà lớn để bù lại cho những ngày vất vả của tuổi thơ, nỗi cô đơn và cay đắng trong tù. Thậm chí, bà còn mua nhiều quần áo để bù cho những ngày không có mặc…
Cuộc sống sung túc nhưng bà vẫn không quên những năm tháng cơ cực đã qua. Căn nhà ba tầng ngự trị trên ngọn đồi kia chính là mồ hôi, nước mắt cũng như máu thịt và sự vất vả đắng cay suốt một thời trẻ mà bà đã vượt qua.
Cho đến nay, bà có 47ha rừng cây keo và quế với đội ngũ công nhân lên đến gần một trăm người. Bây giờ, hằng ngày đi thăm rừng bà phải cưỡi ngựa.
Điều rất lạ là mặc dù đã sắp bước vào tuổi thất thập mà giọng nói của bà vẫn còn sang sảng, vẫn đi xe máy như thanh niên, kể cả băng qua những con dốc mà không một chút run tay. Bà đã làm cho tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.
Ông Nguyễn Văn Phương-Chủ tịch UBND xã Dân Hạ đã nói về bà với một niềm tự hào rằng: “Bà Vân là một người cá tính rất mạnh…, tính tình cương trực và thẳng thắn. Với một người phụ nữ trong tay không một đồng tiền, không một tấc đất nhưng đã chịu khó vươn lên làm ăn để có được thành quả như ngày hôm nay thật đáng khâm phục. Ngoài việc làm giàu cho bản thân, bà còn lo giúp những người có hoàn cảnh khó khăn, rồi làm đường cho địa phương… Bà thật là tấm gương quý của địa phương”.
Bài và ảnh: VÕ THỊ THÚY