 |
Với một cánh tay, ông Bửu quen việc làm vườn từ bao năm nay. |
Ông bước ra từ chiến tranh khốc liệt với một cánh tay bị cụt, một con mắt không còn, trên thân thể có hàng chục mảnh đạn và những vết sẹo ngang dọc. Suốt mấy mươi năm sau, ông đã làm bao điều, mà ngay cả người bình thường cũng khó có thể làm được giữa đất rừng U Minh Hạ. Ông là Hồ Tấn Bửu, ở thị trấn U Minh, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.
Đi bộ đội vì... ham vui
Chúng tôi về Cà Mau thăm ông Bửu một ngày cuối năm. Buổi chiều ấy, trong căn nhà giữa mảnh vườn rợp bóng cây xanh, bên dòng kênh U Minh ăm ắp nước mùa lũ nổi, ông “dẫn” chúng tôi trở về ký ức bằng chất giọng rặt chất Nam bộ của mình:
“Tôi nhớ thời còn nhỏ, vùng U Minh Hạ nằm trong sự kiểm soát của Mỹ-ngụy. Với chủ trương “Nhổ cỏ U Minh” nên chúng tràn quân vào xóm ấp, tìm diệt các cơ sở cách mạng. Ngày ấy, đầu năm 1960, ba má tôi nuôi giấu cán bộ cách mạng. Ba tôi làm nhà hai lớp, hằng ngày sinh hoạt vẫn bình thường, khi có địch vây ráp, càn qua mấy chú cán bộ cách mạng lại ẩn ở buồng trong, vốn được ngụy trang rất kỹ. Tôi thích mấy chú bộ đội lắm. Nhiều đêm, khi rảnh, trong mịt mùng đêm U Minh, dưới ánh đèn dầu, các chú dạy tôi chơi đàn, tập hát. Lúc ấy, tôi mới 12 tuổi, chẳng hiểu thế nào là làm cách mạng. Lớn hơn một chút, tôi hiểu được phần nào sứ mệnh cao cả của các chú cán bộ. Năm 14 tuổi, tôi nói với ba mẹ và các anh cho đi bộ đội. Đi vì thích, vì thấy làm cán bộ cách mạng như mấy chú trong nhà mình vui quá, được trực tiếp đánh giặc càn. Lúc đó phong trào Đồng Khởi đã lan khắp lục tỉnh Nam Bộ. Ba má đồng ý, thế là tôi trở thành bộ đội. Mừng lắm! Lúc đầu làm giao liên, được đi học pháo binh, rồi chuyển qua tiểu đoàn cao xạ 207 (Quân khu 9). Năm 1968, tôi chuyển về công tác ở đại đội biệt động thuộc tỉnh đội Cà Mau. Đi bộ đội, dần dần tôi mới cảm nhận được lòng căm thù, cảm nhận được mạch nguồn yêu nước ở trong máu mình. Đi bộ đội, tôi mới cảm nhận được hết ký ức tuổi thơ về cảnh địch bắn giết cô chú mình, láng giềng trong khóm ấp.
Năm 1971, thời điểm quân ta đánh Mỹ-ngụy ác liệt nhất. Quân ta tham gia lực lượng biệt động đánh tàu trên sông, đánh đồn địch, chống càn, đánh quân bảo an của ngụy rất khó khăn. Đồng đội hy sinh nhiều, tôi cũng có đến bảy lần bị thương. Lần cuối cùng là nặng nhất do cháy. Hồi đó, đánh giặc, vũ khí lại thiếu thốn, quân ta thường dùng loại mìn tự chế. Tức là mìn được tháo ra, chế thêm giấy để điều chỉnh thời gian nổ nhanh hay chậm. Có lần, tôi đang “chế” thì không may mìn phát nổ. Cú ấy làm tôi đứt một tay, tay kia chỉ còn sót lại hai ngón, đôi chân nhừ nát. Tôi hôn mê nhiều giờ. Đồng đội ai cũng khóc vì nghĩ tôi không thể sống nổi. Nhưng còn nước còn tát, ráng chuyển tôi vô bệnh viện quân y dã chiến nằm sâu trong rừng.
Ở bệnh viện, các thầy thuốc ai cũng bảo tôi không có khả năng sống sót. Nhưng rồi tôi vẫn sống, như một kỳ tích. Sau 2 tháng hôn mê, được các bác sĩ, y tá chăm sóc, tôi dần hồi phục. Khi tỉnh lại, tôi ngỡ ngàng nhận ra Châu Lệ Hoa - cô y tá được phân công chăm sóc mình chính là người tôi hẹn ước ngày nào. Cô y tá ấy bây giờ là bà xã của tôi. Hoa cùng quê với tôi. Tôi quen Hoa trong một lần về thăm nhà, lúc ấy Hoa mới 17 tuổi. Gặp nhau còn e ngại lắm mặc dù “tình trong như đã…”. Lần ấy, trước khi bị thương, trong đợt về thăm quê, tôi mạnh dạn nói với Hoa: “Chiến tranh kết thúc sẽ trở về cưới em làm vợ nghe!”. Hoa không nói gì, chỉ nhìn tôi và gật đầu. Chừng ấy thôi, chúng tôi cũng coi đó là lời hẹn ước.
Ở bệnh viện tỉnh hai năm, đến năm 1973, tôi được chuyển về Trại điều dưỡng thương binh và Hoa cũng được điều về công tác ở Trại điều dưỡng. Đơn vị đã tổ chức lễ cưới cho chúng tôi. Mọi người đều xúc động vì Hoa đã dám hy sinh để yêu thương, chăm sóc một người như tôi.
Sống trên... bãi mìn
Khi rời Trạm điều dưỡng, hai vợ chồng ông Bửu về xã Khánh Lâm, rồi qua sống ở U Minh (huyện U Minh, tỉnh Cà Mau). Thời gian đầu, cả hai vợ chồng đi làm thuê, mò cua, bắt cá. Ông Bửu còn sức, nhưng chỉ còn một cánh tay với bàn tay sót lại 2 ngón, còn một mắt nên suốt ngày đi câu cá đem bán. Khi cả hai dành dụm được ít tiền, họ mua lại mảnh đất, vốn là bãi mìn ở xã U Minh. Ông Bửu tâm sự:
- Lúc ấy mua mảnh vườn rộng gần 1ha, tôi cũng phân vân lắm. Nhưng lại nghĩ, chiến tranh khốc liệt như vậy, bị thương biết bao lần, mình còn chưa chết. Không làm thì lấy gì để nuôi gia đình, tạo dựng cuộc sống mai sau. Thế là quyết tâm làm. Tôi vốn có kiến thức, kinh nghiệm rà phá bom mìn, rành cách bố trí mìn của địch. Cứ căn theo khoảng cách, tôi đào và dò mìn từ dưới lên. Tôi cầm dao dò và đào mìn, vợ tôi theo sau, làm sạch cỏ dại. Có bận, trước khi đi chợ, tôi dặn vợ: “Em ở nhà đừng ra vườn, mấy chỗ còn chưa gỡ hết, lỡ vấp trái nổ thì nguy”. Bà xã tôi đang vo gạo, cứ ậm ừ, gật đầu. Tôi đi rồi, không biết ở nhà thế nào, bà ấy lại ra vườn, vấp phải một quả mìn. Rất may là nó không phát nổ. Khi tôi về, bả lúng túng kể với tôi không rõ lời. Lần ấy may thiệt là may.
Mảnh vườn gia đình ông Bửu, thời gian đầu trồng cam, quýt, bưởi. Được một thời gian thì các loại cây này hạ giá, không có thị trường, bà con trong xã đua nhau đốn bỏ hết cam quýt, riêng ông Bửu quyết tâm giữ vườn, tiếp tục phát triển. Ông trồng thêm mận, dâu, xoài, táo… nhờ thế, thu hoạch cũng đủ trang trải chi phí đầu tư và sau này đạt hiệu quả cao vì được giá. Trong những năm từ 2001 đến 2003, cả vùng ồ ạt phá vườn nuôi tôm sú. Ông Bửu vẫn quyết tâm giữ vườn. “Nước mắt mồ hôi của cả vợ chồng dồn vào đây, bỏ sao được. Tôi phát triển vườn bằng các loại cây đặc sản, giá trị cao. Tôi cho đào ao nuôi cá, chăn nuôi heo với qui mô, số lượng ngày càng lớn. Nhờ vậy, những năm sau đó, thu hoạch đạt giá trị ngày càng cao” - ông Bửu tâm sự.
Đồng chí Nguyễn Việt Bắc, Chủ tịch UBND thị trấn U Minh, huyện U Minh khi trò chuyện với chúng tôi, đã kể về chú Bửu với sự khâm phục: “Chú Hồ Tấn Bửu là một gương sáng và là niềm tự hào của bà con vùng đất U Minh Hạ này. Hồi chú mới về đây, chọn mua bãi mìn để cải tạo làm vườn, ai cũng bảo chú “điên, gàn”. Hơn nữa, chú Bửu làm nhiều điều trước đây được coi là “kỳ quặc”. Người ta phá bỏ cây gì thì chú quyết tâm giữ, đầu tư thêm để phát triển. Người ta đua nhau đào ao nuôi tôm, chú lại đi trồng dâu đặc sản. Mấy vụ gần đây, tôm chết trắng đồng, trái cây nhiều loại xuống giá. Bà con thường kéo đến chú chơi, nhờ tư vấn kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt. Chú sẵn sàng ngồi nói cả buổi để truyền đạt, rồi đạp xe đến từng nhà chỉ dẫn. Nhiều người đã giàu lên, ổn định cuộc sống nhờ tấm lòng nhiệt thành, giúp đỡ hết mình của chú Bửu.
Vườn cây của vợ chồng ông Bửu ngày càng cho nhiều cây trái, mỗi năm thu hoạch đạt giá trị hơn 200 triệu đồng sau khi trừ mọi chi phí. Kinh tế khá, ông mở thêm cơ sở xay xát. Trong nhiều năm, ông Bửu giúp hàng trăm thương binh và hộ dân thoát nghèo, hiến gần 3.000m2 đất để làm đường liên thôn. Ông được UBND tỉnh và các cấp ngành tặng nhiều bằng khen, giấy khen. Tháng 9-2007, Thủ tướng Chính phủ đã tặng Bằng khen cho ông Hồ Tấn Bửu vì có thành tích trong công tác thương binh liệt sĩ và đền ơn đáp nghĩa giai đoạn 2002-2006.
Rời U Minh, ông Bửu tiễn chúng tôi bằng cái siết bàn tay còn lại không đủ ngón, chai sần. Ông tâm sự: “Tình yêu, khát vọng sống giúp chúng tôi vượt qua khó khăn, thử thách đầy sóng gió. Bà con xóm giềng ở đất U Minh này nhiều người còn nghèo khó, tôi tranh thủ giúp đỡ, hỗ trợ họ thoát nghèo. Hạnh phúc chính là những điều bình dị đó, chú ạ”.
Bài ảnh: ĐẶNG TRUNG KIÊN - NGUYỄN VĂN MINH