Đầu Xuân Kỷ Sửu 2009, GS.TS Ngữ học Nguyễn Tài Cẩn (SN 1926) từ Nga về quê xứ Nghệ. Mấy cựu sinh viên Tổng hợp Văn Hà Nội công tác tại Vinh, có dịp được tháp tùng thầy lên dâng hương đền thờ Hoàng đế Quang Trung trên núi Dũng Quyết, tối ấy được quây quần tại nhà hàng Hương Giang bên Hồ Goong nghe thầy nói chuyện…
Giới nghiên cứu nước ngoài đặt vấn đề nghiên cứu tiếng địa phương của ta, họ nghiên cứu về ta rất sâu, ta thì chưa có ai đi sâu vào lĩnh vực này. Năm 2002, trong Hội nghị quốc tế Nghiên cứu Âu châu và Việt Nam lần thứ 5 tổ chức tại Nga, thầy được mời dự. Sau hội nghị, đoàn Mỹ xin Nga ở lại 6 ngày. Giới an ninh Nga ngần ngại là có cơ sở bởi hội nghị xong rồi họ xin ở lại để làm gì? Đoàn Mỹ thấy vậy liền trả lời:
- Chúng tôi ở lại vì có ông Nguyễn Tài Cẩn ở đây.
- Các anh cần gì ở Nguyễn Tài Cẩn?
- Chúng tôi đang nghiên cứu một văn bản hơn 1.000 câu thơ Nôm về bà Chúa Liễu Hạnh. Ông Cẩn trùm về chữ Nôm, muốn nhờ ông ấy 6 ngày dịch hộ cho thì đỡ cho chúng tôi phải làm việc này trong nhiều tháng.
Một nghìn câu mà làm trong 6 ngày, mỗi ngày hơn 150 câu vẫn gắng làm.
 |
Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn với bản Kiều cổ được tìm thấy. |
Ở Nga cũng có ngành Phương ngôn học nhưng nghiên cứu còn đơn giản, chưa cố vấn được cho Trung ương. Chúng tôi nghiên cứu người Rục ở Quảng Bình, ta cứ muốn tập trung họ bằng cách xây nhà xây cửa, nhưng họ lại bỏ đi. Vừa rồi trong Tây Nguyên lại xây nhà rông, xây xong họ không ở, là vì mình chưa nghiên cứu kĩ tính địa phương.
Cho nên nhiều chuyện ta chưa hiểu sâu những tập tục đã thành máu thịt của dân bản địa, do đó có nơi có lúc mình còn đơn giản, nặng về dùng biện pháp hành chính. Vì vậy việc nghiên cứu sâu tính địa phương là vô cùng cần thiết. Về ngôn ngữ cũng vậy. Mình chưa hiểu đủ về mình thì cũng chưa thể hiểu đủ thế giới.
Tìm hiểu giai thoại, truyền thuyết, rồi qua người này người kia, nên điều biết để nói về xứ Nghệ với thầy là rất khó. Nói một cách nghiêm túc khoa học là thầy chưa biết, vì chỉ đọc mỗi Bùi Dương Lịch là chưa đủ. Đi vào nghiên cứu tính địa phương thì Nghệ Tĩnh là vùng ghê gớm, tương lai trả lời thế nào chưa biết, nhưng đây là một vùng phải nghiên cứu. Xứ Nghệ (bao gồm Nghệ An, Hà Tĩnh) nguyên là vùng biên giới cũ, trong nữa là Chàm. Đến Thế kỷ 13 chẳng hạn, Nguyễn Trung Ngạn đã đề cao Vinh với một đoạn đê sông La (nay thuộc Đức Thọ, Hà Tĩnh) làm tuyến phòng thủ.
Nghệ Tĩnh là một nơi mà thầy tin ông Tay-lo sẽ là người viết hay. Vì sao như vậy? Trước đây ông này được ta đánh giá là tiến bộ, được ta mời sang thăm luôn. Thời ông này còn ở trong quân đội Mỹ làm văn phòng, rồi bị thương, về sau trở thành nhà nghiên cứu về Việt Nam. Ông lấy vợ Nhật, năm 1993 ông sang học chữ Nôm với thầy và ra cuốn sách Sự hình thành nước Việt Nam. Cuốn này được các GS Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng đánh giá cao, cách nhìn của ông khác ta nhưng đóng góp nhiều cái mới. Gần đây ông Tay-lo đi vào lí thuyết mới đó là Sự cạnh tranh giữa các địa phương Việt Nam, tức là nghiên cứu về tính địa phương. Để thấy rằng vấn đề địa phương là rất quan trọng. Một anh sử gia Mỹ mà đi sâu nghiên cứu về ta như thế.
Sau bữa ấy thầy ra Hà Nội để sang Nga, giờ tôi mới có dịp viết lại cuộc chuyện trò chớp nhoáng. Ba mươi năm trước tôi được thầy dạy về Ngôn ngữ học, ba mươi năm sau gặp lại, thầy khuyến khích tôi tìm hiểu về xứ mình chỉ vì Mình chưa hiểu đủ về mình thì cũng chưa thể hiểu đủ về thế giới, chỉ vì xứ Nghệ là vùng đất ghê gớm (chữ dùng của thầy), đã giúp tôi bừng tỉnh với vốn hiểu biết của mình về xứ Nghệ còn rất vỡ lòng. Người là hoa đất, lời tiền nhân dạy thể hiện khá đậm trong người Nghệ đất Nghệ, nhất là ở cư dân “sống trên cát chết vùi trong cát” suốt 220 cây số vùng bãi ngang từ Hoàng Mai đến Đèo Ngang quê tôi...
Sự chung thủy của dân quê tôi với biển có từ thời Văn Lang cổ đại, nó mở lòng đón Thục Phán An Dương Vương (257-207 TCN) về cõi vĩnh hằng. An Dương Vương là đời Vua Hùng cuối cùng đóng đô ở Cổ Loa, sau khi "trót để cơ đồ đắm biển sâu" trở thành ông Vua đầu tiên trong lịch sử nước nhà phải mở đường máu vào xứ Nghệ, và chọn vựng bãi ngang là nơi tiếp giáp giữa đất với nước để yên giấc ngàn thu. Theo truyền thuyết, khi An Dương Vương bỏ Kinh thành đem gia nhân chạy vào xứ Nghệ, một số người trồng hoa cũng rời Kinh thành theo Vua vào xứ Nghệ lánh nạn và lập nên làng Hoa Lũy. Sau khi An Dương Vương chém chết Công chúa Mỵ Châu và tuẫn tiết ở biển Cửa Hiền, một số người trồng hoa từ làng Hoa Lũy (Diễn Kim, huyện Diễn Châu ngày nay) vượt sông Cấm chạy vào đất Nghi Lộc, vậy nên người dân các xó Nghi Kim, Nghi Liên đến nay vẫn rất giỏi trồng hoa tươi, số người ở lại làng Hoa Lũy ngày ấy chuyển sang nghề vàng mã, dần lập nên làng Vàng thuộc xã Diễn Hồng. Ngày nay xã Diễn Kim không còn bến đò nhưng vẫn còn tên gọi bến Hoa được lưu giữ trong từ vựng-ngữ nghĩa của “bảo tàng sống” lớp lớp sóng đời. Bến Hoa như là hóa thạch của tên làng Hoa Lũy xa xưa từng trồng hoa cung cấp cho Kinh thành Phong Khê (Cổ Loa).
Trong kho tàng huyền thoại phong phú của xứ Nghệ cũng dày đặc những câu chuyện bi hùng. Truyền rằng: Ngày xưa giặc phương Bắc sang cướp nước ta, một vị tướng quê xứ Nghệ đem quân ra ứng cứu. Đoàn quân chiến đấu vô cùng dũng cảm tới khi cờ rách trống thủng, vị tướng bị lìa đầu. Đầu bị lìa rồi nhưng vị tướng vẫn cố chạy về tới đất Châu Diễn thì gặp cụ già ngồi bên bờ Bằng Giang (sông Bùng):
- Thưa cụ, xưa nay có ai lắp lại đầu mà sống không ?
- Không bao giờ!
Cụ già dứt lời, đầu của vị tướng mới chịu rơi xuống đất, phần thân thể hóa núi Hai Vai. Tên gọi núi Hai Vai phải chăng xuất phát từ Hai vai gánh vác sơn hà? Phải chăng là "linh ứng" về tinh thần quả cảm hy sinh vì nước của vị tướng khiến núi đá cũng ngưỡng mộ, để rồi về sau ở phía Tây huyện Yên Thành nơi đoàn quân bị thủng trống, rách cờ tiếp tục mọc lên núi Trống Thủng, nơi cờ rách hoá thành núi Yên Mã có muôn đỉnh toe tướp nhấp nhô như diềm cờ trận? Khắp xứ Nghệ có rất nhiều ngọn mang tên núi Cờ, núi Voi, núi Mão, núi Áo, núi Kiếm... núi Bút, núi Ấn, núi Mực, núi Nghiên, để người đời sau phát huy tinh thần xả thân vì nước, ý chí hiếu học đến khổ học của người xứ Nghệ.
Tôi chú ý truyền thuyết về mối tình mới được cất giữ nơi Mục Sơn (đảo Mắt) giữa biển trời. Truyền rằng chồng quê Nghệ, vợ là Tố Nương quê Phong Châu, hai người đều là tướng giỏi trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Khởi nghĩa thất bại, quân thù truy đuổi, vợ chồng tướng bị lạc nhau. Đêm ngày Tố Nương mong ngóng chờ chồng mãi không thấy về, một ngày nọ nàng đóng thuyền vượt biển vào xứ Nghệ tìm chồng. Khi thuyền tới biển Đan Nhai (tên gọi cũ của Cửa Hội) thình lình cơn bão ập đến. Là nữ tướng xông pha nơi trận tiền, nhưng một mình giữa biển cả với bão tố cuồng phong thì nàng vẫn là thân gái, phải tấp thuyền vào đảo lánh nạn. Mấy hôm sau biển lặng trời yên, nàng xuống tìm thuyền để tiếp tục hành trình vượt biển vào đất liền tìm chồng, nhưng cuồng phong đã vĩnh viễn nhấn chìm thuyền nơi biển cả - phương tiện để nàng đi tìm hạnh phúc. Ngày này qua tháng khác, năm này qua năm khác, Tố Nương trơ trọi giữa biển trời, đau đáu ngóng vào đất liền quê chồng trong nỗi nhớ thương vô bờ. Cảm thương lòng chung thủy của nàng dâu quê xứ Bắc với chồng quê xứ Nghệ, người bãi ngang quê tôi đặt tên là đảo Mắt để muôn đời cất giữ linh hồn, và lòng chung thủy của Tố Nương hóa thạch nơi đảo Mắt! Quan sát theo trục Tây-Đông ta càng thấy đảo Mắt (tên chữ là Mục Sơn) giống mắt người thiếu nữ đang vời vợi ngóng vào đất liền.
Xứ Nghệ không phải là nơi cắt rốn chôn rau của Tố Nương, ngẫu nhiên hay là trời đất sắp đặt để cuộc tình thủy chung hạnh phúc trên đất Phong Châu, nhưng được lưu giữ muôn đời tại xứ Nghệ, cụ thể là giữa biển xứ Nghệ chứ không biển của xứ nào khác? Vì thế mà bạn bè tôi trong Nam ngoài Bắc đều chung nhận xét:
- Gái xứ Nghệ đẹp nết đẹp người, đảm đang, chung thủy, yêu chồng, thương con quên cả bản thân mình.
Vốn cẩn trọng trước lời khen, tôi gắng tìm mà chưa lí giải nổi mối liên hệ giống nhau về “gien” thủy chung có trong truyền thuyết Tố Nương với nhận xét của bạn dành cho phái đẹp xứ Nghệ. Chỉ biết rằng, lòng yêu nước của người Nghệ không chỉ thể hiện nơi hòn tên mũi đạn giữa trận tiền, mà còn thể hiện qua ứng đối trước tàn bạo quân thù. Cũng là xứ Nghệ, cụ thể làng Yên Hồ, huyện Đức Thọ sinh ra Nguyễn Biểu (?-1413), cho đến nay ông là vị sứ giả duy nhất trên thế giới ngồi vào bàn ăn cỗ đầu người do tướng giặc bày ra! Truyền rằng, trước khi ngồi ăn cỗ đầu người, Nguyễn Biểu ung dung nói với tướng thù Người Nam ăn đầu giặc Bắc, rồi ứng khẩu bài thơ vừa làm:
Ngọc thiện trần tu đã đủ mùi
Gia hào thêm có cỗ đầu người
Nem công chả phượng còn thua béo
Thịt gấu, gân lân chẳng kém tươi
Ca lối Lộc Minh so cũng một
Vật bày thọ thủ bội hơn mười
Kia kìa ngon ngọt tày vai lợn
Tráng sĩ như Phàn tiếng để đời.
Dám ăn cỗ đầu người do tướng giặc bày ra, Nguyễn Biểu ăn khí thiêng của xứ Nghệ, hùng thiêng của sông núi nước Nam, ăn để thể hiện dũng khí của sứ giả nước Nam không chịu khuất phục quân bạo tàn, dám ăn cỗ đầu người để chấp nhận rơi đầu, để bảo toàn danh dự quốc gia! Cảm phục tinh thần hi sinh lẫm liệt của Nguyễn Biểu, Vua phong tặng ông tước Nghĩa Vương hầu.
Vinh, Xuân Canh Dần 2010
Mai Huyền